Ông Hoàng Bơ Thoải Phủ Là Ai? Sự Tích Và Đền Thờ
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 29 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Ông Hoàng Bơ (Quan Hoàng Bơ) Thoải Phủ là một trong Thập Vị Ông Hoàng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ Việt Nam. Cứ vào ngày 26/06 âm lịch hằng năm, các con hương từ thập phương lại nô nức về chiêm bái cửa đền thờ vị thánh Hoàng Bơ để cầu tài lộc, bình an.
Ông Hoàng Bơ (Quan Hoàng Bơ) Thoải Phủ là một trong Thập Vị Ông Hoàng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ Việt Nam. Cứ vào ngày 26/06 âm lịch hằng năm, các con hương từ thập phương lại nô nức về chiêm bái cửa đền thờ vị thánh Hoàng Bơ để cầu tài lộc, bình an.
Sự tích về Ông Hoàng Bơ Thoải Phủ
Ông Hoàng Bơ Thoải Phủ là con trai của đức vua Long Vương Bát Hải Động Đình nên còn được gọi là Ông Bơ Thoải. Ông thường trông coi Đền Vàng Thủy Phủ dưới Thoải Cung. Nhân dân lưu truyền rằng, ông thường hiện lên thành vị Hoàng Tử có dung mạo hơn người, cưỡi cá chép vàng biến hiện xuất thần trên mặt nước. Khi thanh nhàn, ông cũng hiện lên đi ngao du thiên hạ, cùng các bạn tiên uống rượu, đánh cờ,… hưởng thử các thú vui của bậc cao nhân.
Theo sự tích truyền lại, ông là người em thân cận của Quan Lớn Đệ Tam. Mỗi khi rảnh rỗi, ông thường rong chơi khắp chốn trên chiếc thuyền rồng. Khi thấy cảnh dân chúng nghèo khổ lầm than, ông đã nhận lệnh Vua Cha lên làm khâm sai cõi phàm trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân buôn bán làm ăn, buôn bán thuận buồm xuôi gió, người có học đỗ đạt thành tài, xã hội bình yên ấm no.
Có nhiều dị bản về sự tích ông Hoàng Bơ, một trong số đó kể rằng, ông là thái tử con của vua Nam Tống, mang húy danh là Tống Khắc Bính. Sau khi bị nhà Bắc Tống đánh bại, Ngài đã dong thuyền ra biển Đông sau đó thác hóa tại đây, di quan của Ngài trôi đến cửa Cờn tại Quỳnh Lưu, Nghệ An và được Ông Hoàng Chín lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên và chôn cất. Sau khi ông Hoàng Chín quy hóa, nhân dân đã phối hương linh vị ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Chín và Tứ Vị Vua Bà thờ tại đền. Tuy nhiên, điển tích này vẫn cần phải được xem xét do ngày nay, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm Năng Con người xác định đền Cờn là nơi thờ ông Hoàng Chín chứ không phải là thờ ông Hoàng Bơ.
Một dị bản khác thì ghi chép rằng, Thài Bà nằm mơ thấy một người con gái mặc xiêm y trắng, tay ôm một bé trai tuấn tú, kháu khỉnh đến. Vì cảm tạ tấm lòng từ bi công đức của Bà, nên người con gái ý sẽ cho Hoàng tử Long cung đầu thai làm con để báo hiếu và lập công cho đất nước. Quả đúng như vậy, sau đó Thái Bà đã sinh hạ ra một bé trai khôi ngô lém lỉnh, mắt sáng tinh anh, đặt tên là Trần Minh Đức. Giống như lời chiêm bao khi xưa, bé trai tám tháng đã biết nói, chín tháng biết đi, năm tuổi đã đọc thông thạo sách vở.
Năm hai hai tuổi, Trần Minh Đức đã ngày đêm nghiên cứu Phật Pháp tại thảo am, không màng đến hôn nhân phu phụ. Sau khi cha mẹ qui tiên, thì ông cũng đi đâu không ai hay biết, ngôi đền và thảo am cũng dần dần nhang lạnh khói tàn. Bỗng một đêm, dân làng ai ai cũng đều ngủ mơ thấy có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú, đầu đội kim khôi, mình mặc áo trắng lưng giắt kiếm bạc, cưỡi trên đôi bạch xà. Ngài báo mộng rằng mình là Hoàng Tử Long Cung, giáng sinh xuống trần gian làm con của Thái Ông Thái Bà nay đã mãn kiếp phải trở về Thủy Cung. Hoàng Tử nói khi dân gặp nạn ắt sẽ đến cứu, sau này cũng sẽ âm phù cho dân chúng sống ấm no và ngài không quên dạy dân thờ phụng Thánh Mẫu Thủy Tinh cho nghiêm cẩn. Sáng dậy, ai cũng thuật lại cho nhau giấc mơ giống nhau y hệt, nên nhân dân cung kính lập thêm long ngai bài vị Minh Đức Hoàng Bơ Thoải tại đền Thánh Mẫu. Sau này, khi đê Ngự Hàm vị bỡ, dân chúng trở tay không kịp bèn lập đàn cầu đảo, Hoàng Tử Long Cung đã hóa thành ông Bạch mãng xà xuất hiện để hàn long. Sau khi đê được hàn xong thì Bạch xà cũng biến mất lúc nào không hay, dân làng đều biết là Minh Đức hoàng tử cứu giúp nên về đền lễ tạ, sau này xây một ngôi đền ngay chỗ vỡ đê để thờ Thánh Hoàng Bơ Thoải, nay thuộc huyện Đông Long, tỉnh Thái Bình.
Đền thờ Ông Hoàng Bơ Thoải
Do có nhiều truyền thuyết về Ông Hoàng Bơ Thoải nên ngoài đền Cờn, đền Hưng Long thì Đền thờ Ông Hoàng Bơ tại quần thể di tích Phong Mục cũng được biết đến là nơi thờ Ngài. Quần thể di tích này gồm có đền Mẫu, đền Quan Giám Sát, đền Cô Đôi và đền Cô Tám Đồi Chè nằm gần đền Quan Hoàng Bơ, thuộc thôn Phong Mục, xã Châu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Đền thờ bao gồm tất cả 3 gian, gian ngoài cùng thờ Tứ Phủ Thánh Hoàng, gian giữa thờ Quan Hoàng Bơ và Quan Lớn Đệ Tam, còn gian trong cùng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng Nam Tào, Bắc Đẩu. Trước cửa đền thờ ông Hoàng Bơ Thoải là tượng 2 con ngựa bạch mã và lá cờ cỡ đại.
Dâng lễ Ông Hoàng Bơ Thoải cần lưu ý điều gì
Hầu giá Ông Hoàng Bơ Thoải
Quan Hoàng Bơ là một trong bốnvị Khâm sai nhận lệnh vua Mẫu đi bắt lính chấm đồng. Khi về ngự đồng, Ngài vận áo trắng có thêu hình rồng uốn lượn thành chữ Thọ, thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp thắt lét trắng, cài kim lệch trắng màu bạc. Khi ngự về tấu hương, Ngài khai hoang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả dạo chơi, cũng có khi ông cầm đôi hèo, thể hiện hình ảnh đang cưỡi ngựa đi chu du. Sau khi làm lễ khai quang xong, Ngài sẽ ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ và ban phát tài lộc cho con nhang bên dưới.
Dâng lễ Ông Hoàng Bơ Thoải
Do là vị thánh thần phục vụ nơi Thoải Cung nên khi ngự về đồng, ông Hoàng Bơ Thoải thường vận đồ màu trắng, nên đồ lễ có màu trắng sẽ là vật lễ thành tâm nhất để chiêm bái nơi cửa đền. Vào ngày 26/06 là ngày hội của Ngài, du khách thập phương lại sắm sửa đồ lễ hành hương tới cửa đền của Ông Hoàng Bơ tại các nơi.
Bản văn chầu Ông Hoàng Bơ Thoải
Trên điện ngọc rồng bay năm sắc
Dưới Động Đình ghềnh thác nguy nga
Mênh mông một dải giang hà
Ầm ầm sóng vỗ xa xa bạc đầu
Loài thuỷ tộc đâu đâu tìm đến
Vượt vũ môn xuất hiện thần long
Biến lên mặt nước lạ lùng
Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường
Ông Bơ Thoải đường đường dung mạo
Mặt nhường gương tiết tháo oai phong
Thanh xuân một đấng anh hùng
Toàn tài văn võ lầu thông mọi đường
Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi
Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang
Khăn thêu áo trắng đai vàng
Võ hài chân dận vai mang đôi hèo
Cưỡi ngựa bạch vai đeo cung tiễn
Tay kiếm vàng trước điện bước ra
Thương dân trên cõi Sa Bà
Lòng tham chìm đắm đức hoà khó lên
Trước bệ ngọc Hoàng liền tấu đối
Lên cõi trần mở hội phúc duyên
Khâm sai Hoàng kíp băng miền
Phong lôi một trận nổi lên cõi phàm
Bạn tiên nữ xếp hàng rong ruổi
Cá kình nghê thẳng lối tiễn đưa
Sai quân dưỡng trực lên bờ
Trống dong cờ mở thực là nghiêm trang
Sắp hai hàng càng vàng tán tía
Kiệu vàng son nghi vệ bát âm
Tuần vương nghỉ gót dừng chân
Hoạ thơ Lý Đỗ ca ngâm đọ cờ
Tiệc xong lại chèo đua bẻ lái
Truyền chèo về Bát Hải dong chơi
Quỳnh Côi,Phượng Dực mấy nơi
Sông Thao,sông Cả qua chơi Lục Đầu
Chơi khắp hết sông Cầu sông Mã
Truyền ba quân các ngả thi đua
Lên rừng lấy gỗ chò hoa
Đem về dâng tiến vua cha Động Đình
Ngự Bắc kinh,Thăng Long quý địa
Phủ Tây Hồ tú khí danh lam
Dừng thuyền bái yết Mẫu Vương
Mẫu ban chấp chính cầm quyền vào ra
Cho coi sóc các toà cung nội
Riêng một bầu phượng ruổi loan ca
Đông Cuông, Tuần Quán các tòa
Cây cao bóng mát rườm rà tốt tươi
Đàn cá lội rõ mười không khác
Kết thành lầu dàn dặt đêm thanh
Trăng soi đáy nước thuỷ đình
Có thoi Hoàng thoải xinh xinh khác thường
Thoi sáng ánh kim cương lấp lánh
Biết bao người mến cảnh say sưa
Trách ai vô ý không ngờ
Qua không bái yết thực là khó van
Ai biết phép gia ban tài lộc
Độ cho người văn học thông minh
Hoàng về trắc giáng điện đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.
Thơ phú trong văn ông Bơ
Bản 1
Vậy có thơ rằng
Lau lách xạc xào, gió hiu hiu thổi
Nửa một khoang thuyền,sưởi ấm hồn thơ
Tay nâng bầu rượu,ngồi tựa mạn thuyền
Bút tiên nghiên ngọc,hồn thơ lai láng
Thơ hỏi cung hằng,(sao)lúc mờ lúc sáng
Trăng nhớ thương ai,khi khuyết khi đầy
Hay trăng còn vương vấn chi đây
Rượu tiên chưa cạn ,chia tay sao đành
Khoan nhặt mái chèo,cảnh đền bỗng tới
Trăng in hồ nước,soi mái tam quan
Tiếng mõ vang vang,rũ sạch lòng phàm
Trăng treo đầu núi,vào chùa niệm phật
Nam mô A di đà phật
Như lắng tai nghe,chuông chùa thức tỉnh
Hoàng vẫy tay gọi,các thanh đồng ơi
Bản đền đây,Hoàng đã tới nơi rồi
Lúc trở ra về ,sao thưa trăng khuất
Vì mến thương hoàng,trăng ẩn nấp bên non
Thoi ông đi trở ánh trăng tròn
Lúc về trăng lặn chỉ còn bầu rượu túi thơ
Tay nâng bầu rượu,cạn tự bao giờ
Mỉm cười hoàng hẹn,mai chờ trăng lên
Bản 2
Động Đình tây hồ thu nguyệt huy
Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi
Túy khách mãn thuyền ca Bạch trữ
Bất tri sương lộ nhập thu y.
Mực in vách phấn đề thơ
Hồ Tây sóng nước bây giờ là đây
Gió trăng chở một thuyền đầy
Của kho vô tận, biết ngày nào vơi
Phú nói :
Thuyền nan nhè nhẹ một con chèo
Thuyền Hoàng Bơ Thoải dạo Hồ Tây
Sóng dập dờn sắc nước trời mây
Bát ngát nhẽ ghẹo người du lãm
Yên thuỷ mang mang vô hạn cảm
Ngư long tịch tịch thục đồng tâm
Rượu lưng bầu mong mỏi bạn tri âm
Xuân vắng vẻ biết cùng ai ngâm họa
Gió hây hẩy không nức mùi nhang xạ
Nhác trông lên vách phấn đã đề bài
Thơ ai, xin họa một vài
(Trích Tỳ Bà Hành)
Hát nói:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại chi chia rẽ
Nước mênh mang đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ quên trở lại khách không vội về
Lần tìm sẽ hỏi ai đàn tá
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại bên ghềnh
Khêu đèn thêm rượu còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gảy khúc sầu
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê thường sau thoắt Lục yêu
Dây to dường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa lụa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mô trước ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
Gã thiện tài so phen từng khúc
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua
Biết bao thê thảm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu vượn hót véo von
Hoa xuân nở nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng địch nội
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Chợt tỉnh giấc gót hài xa lắc
Hội long vân dìu dặt còn đâu
Màn đêm buông xuống một màu
Mơ mơ tỉnh tỉnh thấy đâu mơ màng
Bản 3
Cách trở duyên trần dải sông ngân
Hoa theo dòng nước ,luống tần ngần
Chân trời ảm đạm,như huyễn mộng
Góc bề tờ mờ nhạt áng vân
Đêm đêm ngọc rớt trông tri kỷ
Sáng sáng châu rơi nhớ cố nhân
Thi ca xướng hoạ tô bồ liễu
Điểm xuyết giai nhân ý trọn vần
Ngồi tựa khe suối gảy cung đàn
Chạnh lòng nhớ tới bạn tri loan
Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió
Gửi khách Tương Như khúc phượng cầm
Hỡi ai tửu sớm trà chưa tỉnh
Nặng gánh gương đàn nợ nước non
Non sông ghi dấu người anh kiệt
Cờn hải long lanh lớp sóng vàng
Chín bể ai hay lòng sắt đá
Ba ngôi đâu tá tuyết chiêu dương
Noi gương kim cổ lòng man mác
Phú quý vinh hoa giấc mộng vàng
Ba chén rượu Hoàng ngồi chếnh choáng
Lấy câu thơ bạch tuyết ngâm nga
Bạn cùng người tuyết nguyệt phong hoa
Lấy tiên tửu cầm ca làm nhã thú
Hỏi còn gì ngon hơn rượu nhỉ
Quyết say cho tuý luý tang bồng
Đẹp gì bằng khi gió mát trăng trong
Hiến rượu thánh bàn cờ tiên dong dả
Khi nhàn hạ dạo chơi Xích Bích
Một con đò mặt nước mặt nước lặng như tờ
Một mái chèo hiên ngang gần Bạch Lộ
Buông chèo hoa len lỏi bến sông Tương
Nghe xa xa réo rắt giọng cung thương
Giật mình nghĩ hiên ngang thuở trước
Ngẫm sự đời cũng ví tựa phù du
Kho vô tận ngàn thu còn chưa bỏ