Quan Lớn Tuần Tranh Là Ai? Đền Thờ Và Sự Tích
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 272 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cũng là một trong những vị quan lớn có danh tiếng hết sức lẫy lừng và Ngài được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng thứ năm trong hàng của Ngũ Vị Tôn Ông, Ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại là vị Quan Ông hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cũng là một trong những vị quan lớn có danh tiếng hết sức lẫy lừng và Ngài được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng thứ năm trong hàng của Ngũ Vị Tôn Ông, Ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại là vị Quan Ông hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Mỗi vị trong Ngũ Vị Tôn Quan đều gắn với những sự tích riêng cho mình, vậy Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh có sự tích, lịch sử như thế nào thì kính mời quý bạn độc giả cùng xem chi tiết dưới đây:
Sự tích về Quan Lớn Tuần Tranh
Thần tích qua Ngọc Phả, Truyền thuyết:
Có nhiều truyền thuyết về gốc tích của Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, nhất là qua các ngọc phả thần tích và các điển tích, các đền phủ của tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ, đền thờ Ông cũng như qua các bản văn chầu. Có một truyền thuyết tương đối phổ biến qua thần tích và ngọc phả đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải về gốc tích của Ông như sau:
Ông là người con trai thứ năm trong một gia đình người lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng triều thập bát (Hùng Duệ vương). Tuy tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò chưa có người con trai nối dõi, trong một lần ông bà bắt được bào thai, bên trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, bão táp, 9 quả trứng nứt vỏ và 9 con rắn ra đời, ngày tháng đi qua, lũ rắn cũng lớn dần lên.
Năm ấy, đất nước có giặc ngoại xâm, vua Hùng phải lập đàn cầu khẩn các vị Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh sĩ. Nghe tiếng loa truyền, 9 con rắn hoá thành 9 chàng trai cao to, vạm vỡ, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. Chín anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận, chỉ một ngày đánh tan giặc, đất nước được trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh khen thưởng, phong cho 9 chàng trai đó là 9 ông Hoàng.
Ngày 22/8 năm Bính Dần, bỗng có một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai đều hóa trở lại thành 9 con rắn trở rồi trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng tưởng nhớ, truy ơn nên lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua diệt giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng cũng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tây Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải.
Một truyền thuyết khác thì kể rằng: Ông là người con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là một vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được vua cha giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh, qua đó Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Ông có tình cảm với một người thiếu nữ xinh đẹp, nàng là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung nên nàng cũng đáp lại tình cảm của Ông mà không hề nói cho Ông biết là nàng đã có chồng. Ông vẫn đinh ninh đó là một mối tình đẹp, hẹn ngày rước nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, đã vu cho ông tội quyến rũ vợ của mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan và bị phạt đem đi đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn, trong bản văn trầu có câu ca sau:
“…Ngày hai nhăm tháng năm bắt đày chốn sơn cùng thủy kiệt,
Oan vì tuyết nguyệt bởi lòng ái ân…”
Tại bến sông Kỳ Cùng, để chứng tỏ bản thân mình vô tội, ông trầm mình xuống dòng sông Kỳ Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà và được một vợ chồng ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Khi viên quan phủ biết chuyện ông bà lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà lão phải lên cửa công chịu tội và đòi giết đôi bạch xà. Hai ông bà lão vông cùng thương xót, nên đã xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, kì lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.
Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chính chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được, không những thế lại còn có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo xin Ông thì lập tức sóng yên biển lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Để tưởng nhớ công đức, vua Thục giải oan cho Ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này Ông còn nhiều lần hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, giúp dân trừ tà sát quỷ, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.
Xem thêm: Sự tích Quan điều thất
Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt”
Xưa kia, có hai vợ chồng già làm ruộng, một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ liền nhặt đem về nhà. Được ít lâu thì hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn lanh, hai vợ chồng đi tới đâu chúng nó thường bò theo đó. Hai người không con nên cứ nuôi chúng xem như là con, thường ngày chăm bẵm, cho ăn uống tử tế.
Một hôm, người chồng đang cuốc vườn thi vô ý cuốc đứt một khúc đuôi của một con. Sau đó, vợ chồng mới đặt tên hai con rắn là con Dài, con Cụt. Khi hai con rắn lớn lên, chúng ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng thường đi bắt trộm gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng lo lắng không nuôi nổi, nên đã đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm thuộc hạ và giao cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, chúng hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải khiếp sợ nên gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Lắm khi chúng bắt cả người, cướp súc vật là chuyện thường hay xảy ra, các ghe thuyền qua lại trên khúc sông thường bị ông Cụt nổi lên đánh sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi của ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin hai con đừng làm hại người, chúng cũng nghe theo được ít lâu rồi đâu vẫn hoàn đấy.
Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, liên cho sai hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi cưới. Nghe vậy hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền chạy lên bờ trốn tránh, nhưng rồi ông Cụt vẫn cho thuộc hạ theo dõi. Thừa lúc trong một đêm mưa gió, ông Cụt đã bắt được Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày hôm sau, người chồng phát hiện ra, chạy theo dấu ra đến bờ sông thì chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Người chồng không biết làm thế nào, đành ôm hận đi tìm người dạy phép tắc thần thông để trừ diệt ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết ông chính là Bạch Long Hầu, tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời người đàn ông họ Trịnh về nhà mình chơi ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long Hầu làm của tin để có thể dò tìm Dương Thị nơi ở dưới Thủy Phủ.
Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn nhờ cậy Bạch Long Hầu đưa chàng đến Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới, ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền kiện được thắng. Long Vương xử cho nàng Dương Thị được trở về mặt đất với chồng, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt nuôi. Sau đó, Ông Cụt bị lưu đày đến ở sông Kỳ Cùng, nay thuộc về Lạng Sơn.
Ngày ông Cụt bị Long Vương cho giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân ông đầy cả một khúc sông. Được biết hiện nay gần cầu Kỳ Lừa trên bờ sông Kỳ Cùng có ngôi đền thờ tên là “ Thần sông nước bị đuổi” từ huyện Vĩnh Lại đất Hồng Châu lên, được nhiều du khách đến chiêm bái và cầu tài cầu lộc.
Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Các đền thờ Quan Ông bao gồm các đền sau: Đền Tuần Tranh, Hải Dương và Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất thì phải là Đền Ninh Giang và đền Kỳ Cùng.
Ninh Giang là đất anh hào
Linh thiêng dũng mãnh ai nào sánh hơn
Đời đời non nước ghi ơn
Quan tuần bảo vệ non sơn nước nhà
Thanh niên cho tới người già
Thành tâm bái yết ông trục tà cho
Đời đời sẽ được ấm no
Quan tuần lẫm liệt ông cho thái hoà
Bóng ông lịch sự nhất toà
Cứu nhân độ thế trung hoà nước non
Đền Ninh Giang được lập bên bến sông Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (là nơi quê nhà của Ông, nơi Ông trấn giữ duyên hải sông Tranh và cũng là nơi Ông đã hiển tích) và đền Kỳ Cùng được lập bên bến sông Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại – Châu Thoát Lãng, nay thuộc TP Lạng Sơn (cầu Kì Lừa là nơi ông bị đi lưu đày). Đền Tranh hay còn có tên gọi khác là đền Quan lớn Tuần Tranh.
Ngày tiệc chính của Quan Ông là ngày 25/5 âm lịch hàng năm (là ngày ông bị lưu đày và dặn nhân dân quê Ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2 âm lịch, các đền thờ Ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của Quan.
Lễ hội tại đền Tranh
Đền Tranh một năm tổ chức ba mùa lễ hội: Hội tháng 2, từ ngày 10 đến 20 tháng 2, trọng hội vào ngày14 là ngày sinh của Quan Lớn Tuần Tranh, đây là hội chính được hàng năm. Hội vào tháng 5, từ ngày 20 đến 26 tháng 5, trọng hội vào ngày 25 là ngày hoá của Đức thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút được nhiều du khách các tỉnh phía Bắc và là một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách thập phương về đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít du khách thập phương đến lễ và không thể thiếu những tiết mục hát chầu văn.
Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Nửa thế kỷ trôi qua, trải qua những thăng trầm qua hai cuộc chiến tranh, đền Tranh được tôn dựng lại trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những thế, đền còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Vì thế nên không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
Đền hiện nay có 11 ban thờ bao gồm:
1- Ban thờ Phật
2- Ban thờ Thánh mẫu
3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà (Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
7- Ban thờ Sơn trang.
8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
10- Ban thờ Mẫu địa
11- Ban thờ Đức thánh Trần
Phần hội ở đây được tổ chức rất giản dị nhưng vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời văn khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà và tinh tế. Vì thế nên có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn.
Kinh nghiệm khi đi lễ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Hầu giá Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Tuy đứng thứ năm trong hàng của Ngũ Vị Tôn Ông, Ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại là vị Quan Ông hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Khi về ngự đồng Quan Ông thường vận áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ tiệc lễ nào, sau khi thỉnh các Quan Lớn về, đều phải đợi cho đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh về chứng giám một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá lễ.
Dâng lễ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Hàng năm, ngày 25 tháng 5 âm lịch được chọn là ngày tiệc chính của Quan Đệ Ngũ. Vào ngày này hay những dịp đầu xuân năm mới, du khách thập phương và người dân địa phương thường đổ về Đền Tuần Tranh hoặc đền Kỳ Cùng để thắp hương dâng lễ cầu thọ lộc. Khi hành hương đến cửa đền, người ta hay sắm sửa một mâm lễ chay mặn tùy tâm, những thức lễ tiêu biểu đó thường là hoa quả, cơi trầu, quả cau, xôi thịt, nén hương, giấy tiền, cánh sớ hay quanh oản.
Bản văn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
Đệ tử con khấu đầu cung thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ tuần tranh
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ lên danh tướng tài
Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn
Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu
Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang
Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông
Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài anh phỉ nguyền
Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh
Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân
Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
Lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuôm chàm xanh
Tấm thân đành nhục vinh lẽ thường
Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu
Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng
Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng
Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời
Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà
Đất Ninh Giang tìm nhà có phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay
Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà
Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó Khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây
Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này
Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng
Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan
Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha
Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
hại nhân nhân hại sự đà không sai
Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.
Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông
Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
lệnh truyền dân xã lập đèn bên sông
Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.