Quẻ 56: Hỏa Sơn Lữ

Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên ico-google-new.png
  • 11 tháng trước
  • 10 Lượt xem

*Quẻ Hỏa Sơn Lữ: Quẻ hung. Lữ có nghĩa là ở trọ, ở nhờ, không thể tự do như nhà mình được, vì vậy nó có hình tượng “chim bị đốt tổ”. Quẻ tượng giai đoạn không thuận lợi, suôn sẻ nên phải đi nhờ cầy, trợ giúp, ở nhờ. Khuyên người nên giữ mình văn minh, nhũn nhặn, mềm mỏng, như vậy tất được tốt, tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc lộc.

*Quẻ Hỏa Sơn Lữ: Quẻ hung. Lữ có nghĩa là ở trọ, ở nhờ, không thể tự do như nhà mình được, vì vậy nó có hình tượng “chim bị đốt tổ”. Quẻ tượng giai đoạn không thuận lợi, suôn sẻ nên phải đi nhờ cầy, trợ giúp, ở nhờ. Khuyên người nên giữ mình văn minh, nhũn nhặn, mềm mỏng, như vậy tất được tốt, tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc lộc.

Ý nghĩa tượng quẻ: “Túc điểu phân sào” —> việc làm không thành

 Ý nghĩa quẻ hỏa sơn lữ

Quẻ 56: Hỏa Sơn Lữ

Nội quái Cấn, ngoại quái Ly.

*Ý nghĩa: Khách dã. Thứ yếu. Đỗ nhờ, khách, ở đậu, tạm trú, kê vào, gá vào, ký ngụ bên ngoài, tính cách lang thang, ít người thân, không chính. Ỷ nhân tác giá chi tượng: nhờ người mai mối.

*Kiến giải: Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.

*Thoán từ: Lữ: tiểu hanh, Lữ trinh, cát.

*Dịch: Ở đậu; hơi hanh thông. Đi ở đậu mà giữ đạo chính thì tốt.

*Giảng: Chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người.

Cảnh đó là cảnh bất đắc dĩ, nhiều lắm chỉ có thể hơi hanh thông được thôi, nếu người đi ở đậu biết giữ đức trung, thuận, như hào 5, yên lặng như nội quái Cấn, sáng suốt như ngoại quái Ly. Hào 5 đắc trung mà lại là âm ở giữa hai hào dương, biết thuận theo dương. Cái đạo ở đậu là mềm mỏng, đừng làm cao để người ta khỏi ghét; nhưng mặt khác, cũng phải yên lặng sáng suốt giữ tư cách, đạo chính của mình để người ta khỏi khinh. Giữ cho đạo được nghĩa lý trong hoàn cảnh đó thật là khó (lữ chỉ thời nghĩa, đại hĩ tai: lời Thoán truyện).

Đại tượng truyện cũng lại áp dụng vào việc hình pháp, khuyên phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục)

Ý nghĩa hào từ

Hào 1: Lữ toả toả, tư kì sở thủ tai.

Tượng: Ở đậu mà tư cách nhỏ nhen, tẳn mẳn tức là tự chuốc lấy hoạ.

Lời giảng: Hào 1 âm nhu, ở vị thấp nhất, ví với người chí đã cùng, tư cách hèn hạ đối với chủ nhà mình ở đậu mà tham lam, tẳn mẳn, khiến người ta ghét, như vậy là tự rước hoạ vào mình.

Hào 2: Lữ tức thứ, hoài kì tư, đắc đồng bộc, trinh.

Tượng: Ở đất khách, được chỗ trọn an lành, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ tín cẩn.

Lời giảng: Ở đất khách nên nhu thuận, mà hào này âm nhu, đắc trung, đắc chính, trên lại ứng với hào 5, cũng âm nhu, đắc trung mà lại văn minh (ở ngoại quái Ly), như gặp được chủ nhà tốt, mình có chỗ trọn an lành, lại giữ được tiền, có đầy tớ tín cẩn, mọi việc đều tốt cả.

Hào 3: Lữ, phần kì thứ, táng kì đồng bộc, trinh, lệ.

Tượng: Ở đất khách, mà (tự mình) đốt chỗ trọ, mất đầy tớ, dù chính đáng cũng nguy.

Lời giảng: Hào này quá cương (dương ở vị dương), bất trung, ở đất khách như vậy không tốt, vị lại khá cao, có ý tự cao, bị chủ nhà trọ đuổi, như vậy không khác gì tự đốt chỗ trọ của mình, đầy tớ cũng không ưa mình, mất lòng cả người trên kẻ dưới, dù mình có chính đáng, cũng nguy.

Hào 4: Lữ vu xử, đắc kì tư phủ, ngã tâm bất khoái.

Tượng: Tới đất khách, được chỗ ở tạm, có tiền của và đồ hộ thân (tượng trưng bằng cái búa), nhưng trong lòng không vui.

Lời giảng: Tuy dương cương nhưng ở vị âm, lại ở dưới cùng ngoại quái, là biết mềm mỏng, tự hạ, tức biết xử thế, cho nên được chỗ ở tạm, có tiền của, vật liệu để phòng thân, nhưng ở trên, hào 5 âm nhu không giúp đỡ gì được 4, ở dưới, hào 1, ứng với 4 âm nhu, lại thấp hèn, cũng chẳng giúp đỡ 4 được gì, vì vậy là lòng 4 không vui.

Các sách cho “tư phủ” là cái búa sắc bén, và giảng là : lữ khách tới nơi, không có quán trọ, chỉ có mảnh đất gai góc, phải dùng búa bén để phá bụi bờ mà làm chỗ ở, nên trong lòng không vui.

Hào 5: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.

Tượng: Bắn con trĩ, mất một mũi tên, sau được khen và phúc lộc (hoặc chức vị: mệnh) .

Lời giảng: Thường hào 5 trỏ ngôi vua, nhưng nếu vua là làm lữ khách thì là vua mất nước, cho nên chỉ nên coi là một lữ khách thôi, một lữ khách văn minh (ở ngoại quái ly), nhũn nhặn, mềm mỏng (âm nhu) được lòng mọi người (đắc trung) , như vậy tất được tốt đẹp như bắn được con trĩ (một loài chim đẹp – tượng quẻ Ly) tốn hao không mấy mà được tiếng khen, và phúc lộc.

Hào 6: Điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị, hung.

Tượng: Con chim cháy mất tổ, người lữ hành trước cười, sau kêu khóc, vì láu táu (vô ý) đánh mất con bò (đức nhu thuận), xấu.

Lời giảng: Thân phận ở đậu mà lại ở trên chủ nhà, đã là nghịch cảnh rồi, đã vậy lại quá cương (hào dương), mất lòng người, tất bị đuổi đi, như con chim cháy mất tổ. Mới đầu hớn hở, vì được ở trên người, sau phải kêu khóc vì mất chỗ trọ. Sở dĩ vậy vì khinh dị đánh mất đức nhu thuận (tượng bằng con bò) rất cần ở thời ở đậu.

Cuối quẻ Lữ này, cụ Phan Bội Châu có ghi cảm tưởng:

“Xử cảnh khốn nạn không gì bằng Lữ, thiệp thế rất khó khăn cũng không gì bằng Lữ. Tạp quái (truyện) nói rằng: “Lữ là ít người thân yêu, là đường cùng khốn của người vậy: Lữ quả thân dã, nhân chi cùng dã.”

“Tuyền sáu hào không một chữ cát, chữ hanh nào cả . . Dở sinh gặp hồi đen rủi, gởi thân ở đất khách quê người … may khỏi tai hoạ là hạnh phúc đã lớn rồi. Vậy nên trung chính như Lục Nhị (hào 2, âm), văn minh nhu trung như Lục ngũ (hào 5, âm) mà hào từ không có chữ cát hanh. Huống gì quá cương , bất trung như Cửu tam (hào 3, dương). Thượng cửu (hào trên cùng, dương) nữa ? Vậy nên người ở vào thời Lữ, nên mang chặt lấy hai chữ nhu, trung làm bùa hộ thân”.

Đọc lời của Cụ, chúng tôi vô cùng cảm thán. Trong mấy chục năm, vì quốc gia, dân tộc, Cụ gửi thân quê người, gặp biết bao cảnh tủi nhục, nỗi gian nguy, rốt cuộc cũng không tránh khỏi tai hoạ, nhưng lúc nào cũng giữ được tư cách, khí phách chí hướng. Ai hiểu được tình cảnh lữ thứ, hiểu được quẻ Lữ hơn Cụ ?

Xem thêm:

  1. Quẻ lôi trạch quy muội
  2. Quẻ phong sơn tiệm

Cập nhật lần cuối 1 tháng trước
Đăng bình luận thành công! Quản trị viên sẽ phản hồi đến bạn!

Bài viết liên quan

Quẻ 28: Trạch Phong Đại Quá

Quẻ 28: Trạch Phong Đại Quá

*Quẻ Sơn Trạch Phong Đại Quá: Đại Quá có nghĩa là vượt mức, quá nhiều. Quá mức quá nhiều là tai họa, vì thế nó có hình tượng của nằm ngủ ban đêm mơ thấy tiền bạc. Quẻ có điềm việc bất thành, nên nhẫn nại, không nên mơ mộng.

Quẻ 20: Phong Địa Quan

Quẻ 20: Phong Địa Quan

*Quẻ Phong Địa Quan: Quẻ bình. Quan có nghĩa là nhìn, quan sát, xem xét. Quẻ Quan chỉ thời vận đang biến động, không lợi cho hành động, mà phải nghiên cứu quan sát kỹ tình huống trước khi tiến hành công việc, tuy nhiên vẫn dễ thất bại. Là thời vận hợp với những người nghiên cứu, các học giả để quan sát, rút ra những điều bổ ích cho tư duy, cho cái mới sau này.

Quẻ 19: Địa Trạch Lâm

Quẻ 19: Địa Trạch Lâm

*Quẻ Địa Trạch Lâm: Quẻ cát. Lâm có nghĩa là lớn, là việc đang tới dần. Quẻ chỉ thời cơ tốt đang đến cần phải tranh thủ, không bỏ lỡ thời cơ. Tuy nhiên thời cơ vận may gắn liền với khả năng giúp đỡ và đồng tâm cùng mọi người.