Thần Khê Định Số - Lê Quý Đôn
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 102 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Thần Khê Định Số là bài thơ đúc kết lại những kiến thức của Cụ Lệ Quy Đôn về tử vi, tuy không đầy đủ nhưng bài thơ của Cụ nhằm khẳng định sự chính xác và liềm tin vào tử vi. Tuổi trẻ cụ Lệ Qúy Đôn coi thường những người học về thuật số, và cho rằng đó là trò mê tín dị đoan
Thần Khê Định Số là bài thơ đúc kết lại những kiến thức của Cụ Lệ Quy Đôn về tử vi, tuy không đầy đủ nhưng bài thơ của Cụ nhằm khẳng định sự chính xác và liềm tin vào tử vi. Tuổi trẻ cụ Lệ Qúy Đôn coi thường những người học về thuật số, và cho rằng đó là trò mê tín dị đoan, bởi lẽ thành công luôn dựa vào kiến thức và trình độ, thế nhưng sau 50 năm tuổi đời Cụ Lê Quý Đôn gặp học rộng tài cao, am hiểu tường tận kiến thức đông tây kim cổ nhưng công danh không có, tài cao nhưng không thành danh. Vậy nên Ông mới tìm hiểu về Tử Vi và phát hiện ra lá số tử vị của ông có văn xương, văn khúc hãm địa lại gặp Kình Hình. Như vậy học có giỏi nhưng công danh không lớn được. Và từ đó Cụ rất tin vào tử vi, ngoài Thần Khê Định Số thì cụ còn viết ra rất nhiều bài phú tử vi để lại cho hậu thế.
“Diệc sinh đồng niên, đồng nguyệt, đồng nhật, đồng thì, nhi phú quý thọ yểubất đồng, khán trường chân, trường giã.” (Trần Đoàn)
Nếu sinh cùng năm cung tháng cùng ngày, cùng giờ, mà phú quý, thọ yểu không giống nhau, thì xem nét tướng để phân định số mạng. Lời của Trần Đoàn tiên sinh đã được dùng làm nền tảng cho Thần khê định số của cụ bảng Lê Quý Đôn nêu lên. Trường hợp hai người sinh cùng một lúc phải được phân biệt do nét tướng, vì tuy sinh vào cùng giờ nhưng có người ăn vào sao này, có người ăn vào sao khác. Trường hợp chung của mọi người cũng vậy: trên lá số, không phải chỉ có một hai chính tinh ở mệnh mà còn có một số những sao khác cũng rất mạnh: Không, Kiếp, Kình, Kị, Hình, Khốc, Hư, Kiếp Sát, bản mệnh của con người cũng có thể được đặt dưới dấu hiệu của một trong những sao đó, thay vì đặt dưới dâu hiệu của một chính tinh. Vậy cho nên phải xét tướng, xem vận mạng của con người đặt dưới dấu hiệu của sao nào, sau đó mới quyết đoán được vận mạng.
Nay có:
THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ
Lê Quý Đôn
Tuổi đời nay ngoại ngũ tuần.
Mới tường số mạng chuyển vần nghiệm thay.
Nhớ thưở nhỏ tài hay, học giỏi.
Sách thánh hiền theo đuổi công danh.
Rừng nho, bể học ai bằng.
Thông minh đáng bậc tài năng hơn đời.
Nghe Khổng Tử : than trời ! cầu thọ.
Để san xong Dịch số huyền vi.
Ta cười : “Khổng Tử ngu si”.
Khôn ngoan tất thắng ! mà khờ thì thua !
Môn tướng số, để đồ mê tín.
Đoán ba hoa, bàn chuyện vu vơ.
Các điều di bại ! còn kia.
Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong.
Nào Trần Đoàn, Tử Bình, Tứ Tự.
Đọc càng nhiều, trí lự hoang mang.
Cho nên ở thưở thiếu niên,
Ta không tin tưởng các môn học này.
Giầu, sang đều do tay mình tạo.
Nào ai cho ? mà bảo tại trời.
Chẳng qua mê tín đó thôi.
Tài hèn, ngu muội bảo trời không cho !
Học lười, dốt, nên thi chẳng đỗ.
Buôn vụng suy, giầu có làm sao ?
Thế nhân tin tưởng tào lao.
Đem câu số mạng thay vào bình phong .
Nay xét lại trong vòng quá khứ,
Bạn đồng liêu kẻ dở, ngườI hay.
Giầu, nghèo, thọ, yểu lạ thay !
Khó đem hoàn cảnh giãi bày cho thông.
Sức Hạng Võ, sao không hưởng thọ ?
Lại sớm về, bởi gió nhập xâm !
Giầu như Vương Khải, Thạch Sùng,
Chỉ trong khoảng khắc tay không, than trời !
Vấn tâm, lòng vẫn u hoài.
Bách khoa Chư Tử đương thời ai hơn !
Chữ “ Vô tri vấn Bảng Đôn” !
Nay coi lại số, tủi hờn mới vơi,
Thấy Xương Khúc ở nơi hãm địa.
Và Quan cung, Khôi ngộ Kình, Hình.
Vướng câu : “ lạc hãm văn tinh” .
Mới tường số mạng muôn phần đa đoan.
Tuổi cao rồi liệu toan Dịch số,
Và đem câu “ luận cổ suy kim”.
Trần Đoàn đẩu số khảo xem,
Qua bao kinh nghiệm viết nên sách này.
Mạng Tử Vi - Lộc Tồn
Tử Vi mà gặp Lộc Tồn
Hoặc Long Phượng chiếu, các phương triều về
Dạ hành đắc cách cẩm y
Nên coi thần sắc, thuộc về mẩu chi
Thân đầy, nét mặt phương phi
Tam đình câu hãm, phát về phú thôi
Lại phải xem nếu người mặt trắng
Thân như que, liếng thoáng, mồm loe
Ấy phường gian yếu, kể chi
Giàu sang giấc mộng, đức kia liệu bàn.
Tử Phủ / Song Lộc
Người nào Song Lộc triều viên
Lưng đầy thân mập, đầu tròn, tóc thưa
Mắt sáng quắc, mi như lưỡi kiếm
Sớm công danh, cận kiến cửu trùng
Hoặc là Tử Phủ đồng cung
Phải y hình Tướng, mới không sai lầm
Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm
Nhan Hồi số, hoặc thọ trong bần hàn.
Thất Sát Triều Đẩu
Thất Sát đóng tại Dần Thân
Lộc Quyền giáp Quý nhiều phần chắc nên
Hợp với các tuổi mạng Kim
Người ca da trắng thần hiền mới hay
Nếu môi đỏ tóc mây thưa thớt
Đường công danh văn nghiệp dễ thành
Kị thay tuổi Bính tuổi Đinh
Vì e Hao, Hổ, Kình, Hình lại lâm
Người xương xẩu, lẹm cằm, mũi hếch
Phải nên phòng bệnh tật hiểm nguy
Đức nhàn, may giải mọi bề
Trán cao, da tía, thiên về phú thương
Nhưng lòng hiểu dạ toan sâu sắc
Thì chín e chữ Phúc suy vong
Như cây cằn bị gió rung,
Tử tôn bất khả, long đong tuổi già.
Mạng có Nhật Nguyệt tại Sửu Mùi
Những người mạng có Âm Dương,
Phải xem ngay mặt, thần quang thế nào.
Nếu mặt tròn không hao chẳng khuyết,
Thì tánh hiền và biết thủy chung.
Lại như thêm cặp mắt trong,
Trên đường khoa bảng, có công đạt thành.
Khởi tự Giáp đến hàng chữ Quý
Sửu Mùi cung, định vị Âm Dương,
Mặt tròn, da trắng, thần hiền
Ấy là Tấu Cái Khúc Xương phò trì,
Lòng nhân đức, chăm lo đèn sách
Tình đệ huynh, rất mực thuận hòa
Mã Hình Kị có giao gia
Long hành, Hổ bộ, cùng là kiếm mi,
Công danh cận chốn đơn trì,
Có tài tướng soái, bộ hình đảm đương
...................................
Những người hứa hẹn khoe màu,
Mặt thường khuyết hãm, mắt sâu, nhọn mồm,
Phải coi số lại cho tường,
Kẻo lầm: Không, Kiếp, Âm, Dương, Kỵ, Hình,
Nên suy đoán cho tinh mọi lẽ,
Thì mới tường nội rễ sâu nông,
Bởi chưng Nhật Nguyệt ngộ Không,
Tham tàn, e lại bạo hung không lường,
Dầu thêm có Khúc, Xương thủ chiếu,
Càng cơ mưu lắm mẹo hại đời ...
.......................................
Người nào thuộc tuổi Tân Canh
Âm Dương Mùi Sửu, tượng hình diệp thanh
Mắt ti hí, môi thâm, vai nhỏ
Chân tay thô, như vẻ nông phu.
Nói năng đi đứng lầm lì,
Lòng ti tiện, lại có bề tham lam.
Tiền tài, công tựa dạ tràng.
Đời đa lao lực, tân toan khó lường.
Sát Phá Liêm Tham
Người nào Sát Phá Liêm Tham
Phải uy nghi, phải hiên ngang mới hùng
Nếu tóc rậm, đầu không vuông vức
Mắt đỏ hoe, miệng tựa thiềm thừ
Như say, như tỉnh đôi khi
Ất Canh Đinh Bính liệu bề lo toan
Có Thiên Đức lòng hiền khả phú
Ngộ Đà, Kình e khó thọ trường
Tham lang thủ mạng
Tham lang mà ngộ lộc, quyền
Sức như Phàn Khoái, tửu nhường Lưu Linh
Nếu lại thêm Mã, Hình, Ấn chiếu
Tài tướng quân danh trấn biên cương,
Tai to, nhãn lộ, tiếng vang,
Râu hùm, hàm én, ngang tàng cường hung
Tuổi Mậu, Kỷ, Quý, cùng với Giáp,
Có tướng trên mới được Vương hầu.
Dần Thân mạng có Tham Lang
Hổ, Long, Linh, Hỏa hiên ngang anh hùng
Tham ngộ Tuế, dễ lòng tửu sắc
Râu rậm xanh, thê thiếp đa phòng
Tham, Hình mặt đỏ môi cong
Nên tu nhân đức, mới mong thọ trường.
Phá Quân thủ mạng
Nam bất nhân, Phá Quân Thìn Tuất?
Phá Thìn Tuất thân hình phì đại
.........................................
Phá Quân vốn chủ về thủy tinh
Ở Tuất Thìn La Võng đa đoan
.........................................
Tuổi Quý, Giáp vai ngang mắt lộ
Mặt chữ Vương, thân thế điêu linh
Đời hay gây chuyện bất bình
Đa tài mà ít, nên danh phận gì
Phá Thìn Tuất thân phì da trắng
Thủy hợp Kim sự nghiệp đạt thành
Mắt hay liếc, nói năng nhân nghĩa
Chính thuộc hàng, giả trá hiểm sâu
Công danh e khó bền lâu
Kình, Hình, Tuần, Triệt đương đầu dễ nguy
Xét thanh sắc, dáng đi sẽ luận
Nói hụt hơi, chuyển vận nhẹ nhàng
Nên phòng tai nạn hình thương
Không tu nhân đức, khó đường giải nguy
Phá Quân cực Bất Nhân
Phá Thìn Tuất uy nghi thô đại
Bụng tròn vo, lưng lại vông đầy
Đi nhanh, ngực ưỡn, vung tay
Trán cao, võng lệch, tóc dầy cứng đen
Râu quai nón, mắt tròn như ốc
Ma ảo thanh, hoặc đục hay nhàn
Đi ngoảnh lại lúc liếc ngang
Lòng gian hiểm, dạ mưu toan khôn lường
Thời ly loạn gặp thường phát hiển
Tài điều quân, quyền biến cơ mưu
Gian tham, tà ác lựa chiều
Bạn đồng liêu khó giữ điều thủy chung
Nặng danh lợi mà không tình nghĩa
Ruột thịt kia, coi tựa quân thù
Cuộc đời như thể cây khô
Tử tôn khó giữ lưu cơ lưu truyền
Cơ Nguyệt Đồng Lương
Người nào Cơ Nguyệt Đồng Lương
Thân hình phải được như hàng nho sinh
Mặt tròn, da trắng, môi hồng
Thiếu niên khoa bảng, sân rồng có phen
Nhưng cũng phải nhìn vào thần mắt
Như sao băng mới được công khanh
Cổ cao, tiếng nói thanh thanh
Văn chương lỗi lạc, luật thình đắc nghi
Nếu mắt lé, răng chìa, mũi nhọn
Trán rộng cao, tóc gọn mà thưa
Thân thô, cổ rụt, lưng gù
Nói năng nhân nghĩa, đón đưa ngọt ngào
Xin chớ vợi tin vào mà hỏng
Thử dò xem lòng rộng, hẹp sao?
Mới tường mọi lẽ thấp cao
Đồng Lương hạng ấy thuộc vào lại nhân
(Lại nhân là loại người có học vấn có lý thuyết để đưa người ta vào các ý
muốn của mình).
Số Tướng - Mã
Sao Thiên Tướng đi cùng Thiên Mã
Gặp Trường Sanh răng ngựa, chân dài
Đi mau như gió ấy tài
Nam nhân vượng tướng, nữ thời truân chuyên
Nhưng phải có da đen, mắt lớn (mắt lộ)
Mã diện thời Khanh tướng, công hầu
Mã mà Tuần Triệt, khác nhau
Vai so, cổ rút, chân cao, ống đồng
Đi như cò long tong ngoài ruộng
Thì cơ hàn, khó hưởng thọ trường
Cuộc đời sống kiếp tha hương
Đường nhân duyên khó châu toàn một phen
Cự Cơ Mão Dậu
Thủy Hỏa Mộc cũng là Kim vị
Có Cự Cơ lưu ý kẻo lầm
Vì TÀi, Quan thuộc đất không
Ất Tân Đinh Bính lại cùng tuổi Canh
Kình Đà Hổ Hao Hình đồng chiếu
Mặt trái xoan, dáng điệu uy nghi
Da trắng, môi đỏ, tóc thưa
Văn chương, công nghệ, kiêm bề giao thương
Hình tướng hoặc ngũ trường, ngũ đoản
Thì công hầu khanh tướng vang danh
Còn người mắt cú, sát thanh
Mưu mô gian xảo, tính tình đổi thay
Đường cư xử, tựa bàn tay
Lật lên úp xuống, phút giây cạn tình
Nên xem Hình Triệt Đà Kình
Tài Quan Di ắt khó lành vận giao
Mãn phần, tử nghiệp thương đao
Những ai định kết tương giao liệu chừng
Thiên Phủ ngộ Kình - Đà - Hao
Thiên Phủ mà ngộ Đà, Kình
Hoặc cư hoặc chiếu kém phần giàu sang
Nếu thần tướng gia đen mũi lộ
Mắt đỏ lồi hoặc có mây che
Mặt Đại, mặt Tiểu ra chi
Phi bần yểu tất có khi duyên đồ
Tiếng vang thân gấm mắt to
Mi như lưỡi mắc, thần phô dữ dằn
Ấy là Hao, hoặc Kình, Đà nhập
Theo võ công đao nghiệp tử nàn
Đại Hao, Hình Kị
Đại hao nếu được hắc bì
Long Ngưu, bạch nhỡn, Uất trì tướng quân.
Nếu Tang, Hổ, Kình, Hình, Hóa kị.
E tâm tư kém vẻ đức nhân.
Hỏa tinh và Kình Dương
Tuổi Ất Hợi mạng về Hỏa tinh,
Ở Thìn cung, tất định Đào, Hồng
Đào hoa, Tài bạch Tý cung
Ngộ Kình Dương, ấy hay lòng điểm trang.
Vẻ thanh tao, óc giang hồ lạ,
Thích đi đây, đi đó, say sưa,
Mặt như trái táo, tóc thưa
Khôn ngoan đáng bực, lọc lừa khó ăn.