Phú Tử Vi Thông Thư – Lê Quý Đôn
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 65 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Cũng giống như Phú tử vi khác, Phú tử vi Lê Quý Đôn cũng luận đủ 12 cung trong khoa tử vi, giúp các bạn dễ học, dễ nhớ và dễ hiểu hơn. Học nhanh hơn, học kỹ hơn. Ngoài những kiến thức trong sách vở thì Thơ Phú Tử Vi sẽ truyền lại cho chúng ta rất nhiều kiến thức tổng hợp hay và giá trị cao.
Cũng giống như Phú tử vi khác, Phú tử vi Lê Quý Đôn cũng luận đủ 12 cung trong khoa tử vi, giúp các bạn dễ học, dễ nhớ và dễ hiểu hơn. Học nhanh hơn, học kỹ hơn. Ngoài những kiến thức trong sách vở thì Thơ Phú Tử Vi sẽ truyền lại cho chúng ta rất nhiều kiến thức tổng hợp hay và giá trị cao.
Xem Thêm: Phú Tử Vi Ma Thị Tiên Sinh
Phú Tử Vi Thông Thư
( 683 câu )
1) Mệnh viên
Một là bàn đến mệnh viên,
Có sao thủ mệnh đoán bên tính tình.
Tử vi trọng hậu dung hình
Thiên phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà,
Thiên tư ôn thuận thiệt là tốt ghê
Lòng lành tính gặp Thiên Cơ,
Vũ tinh nhập miếu , anh kỳ tài năng.
Thái âm viên mãn ai bằng
Thiên đồng phì mãn, tính hằng ôn lương,
Phá , Liêm to nhỏ khác thường,
Tính tình cương trực, kết đường tà gian,
Thiên Lương từ hậu dung nhan
Sát – Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng
Tham Lang tính bẩm thung dung
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon
Thái Dương tính khí thực khôn
Thanh kỳ bậc nhất, từ lương khác thường
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương
Tư nhan khả ái , thông đường văn chương.
Cự môn tính khí bất thường
Hễ khi sử sự, tìm đường đảo điên
Thiên Tướng lòng thẳng, mặt hiền
Thiên tư mỹ lệ : Khoa, Quyền hẳn hoi
Thanh bần ấy thật Việt- Khôi
Lại gia Thai phụ là nòi khoan dung
Phụ – Bật tuấn tú vốn dòng
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không
Phụ Bật đơn thủ mệnh cung
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà
Phượng- Long đều hợp mệnh ta
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay
Tuế – Riêu họa xướng ư nhời
Nhận –Hư , lòng gió là người sai ngoa
Mây mưa ấy thật Đào Hoa
Lông kia đỏ kệch, Kỵ Đà xấu trông
Trán đen, tính nóng , Kiếp, Không
Hỏa- Linh mặt mũi hình dung bi sầu
Tuế- Phá lạc hãm một âu
Tiếng tăm như sấm ra màu vẻ vang
Kìa như nói chẳng há răng
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng
Phúc , Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn, lưng ong.
Hỷ Thần dài dọng, tâm hung, tràng đầu,
Triệt, Không tính những chẳng âu
Hung trung vô định ra màu gian nan,
Tuế , Tham trong dạ đa đoan,
Kỵ, Diêu tửu sắc, một đoàn ngao du,
Hổ, Tang chẳng việc mà lo,
Quan Phù , Điếu Khách hay phô rộng nhời,
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người,
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu,
Quý, Ân phong độ trượng phu
Chẳng hay quân tử hình thù cũng xinh,
Tướng Quân chỉ thích dụng binh,
Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không
Cô , Qủa thiết kỵ riêng lòng,
Tràng sanh, Đế Vượng, vốn dòng thiện lương.
Đào Hoa, Mộc Dục điểm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng,
Triệt mà gặp được Kim cung
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần,
Tuyệt phùng hỏa địa một khi,
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy, Bệnh, Tử ba dòng,
Gặp vào nước ấy, ai dùng? Ai mang?
Hóa Lộc tính khí dịu dàng,
Bác Sỹ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp Sát xử sự ba đào mênh mông
Xem trong nhân tính đã xong
Lại tính cho thấu các cung ngũ hành
Tướng chân tính, nhận chân hình,
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy
Ví như thuộc Thổ Tử Vi
Tính trì mà gặp hỏa thì lại nhanh
Thiên Phủ vốn tính hòa lành
Song gặp Không, Kiếp thời rành khác thâm
2) Phụ mẫu cung
Cả hai phụ mẫu kể tường.
Âm, Dương ngộ hãm là đường khắc xung
Hãm Dương khắc phụ đã xong
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy
Lưu Dương lại gặp đoán rầy khắc cha
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi
Cáo, Phong có chức, có ngôi
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng
Khôi, Quyền chính trưởng đường đường tốt thông
Thanh bần ấy phải Hóa, Không
Nhược bằng Lộc , Mã phú ông ai tày
Phụ mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.
3) Phúc đức cung
Số ba phúc đức kề liền.
Lộc, Quyền đóng đó trong miền bản cung,
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng , Lương, Tử, Phủ bốn sao,
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn
Âm, Dương, Xương, Khúc , Lộc Tồn,
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh thần.
Thọ thì được ngoại thất tuần
Miếu thì thong thả, ham thì tân toan,
Liêm, Cự ta lại phải bàn,
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la,
Việt , Khôi, Tả, Hữu, Quyền, Khoa
Lộc, Tham, Đế Vượng, thật là tràng sinh,
Đà La, Dương Nhận, Hỏa Tinh,
Vào thì ba bốn rành rành không sai.
Kiếp, Không, Hư, Khốc cùng bầy.
Thiên Hình, Hóa Kỵ, mới loài bạch tang,
Nhị Phù tổn thọ một phương,
Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai.
Sát, Liêm, Tứ Sát cùng bầy
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ ,Qúy, Ân Quang,
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Lại thấy Thân, Mệnh mà suy
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương,
Đã xem hưởng thọ đoán tường,
Lại xem phúc đức đoán phương âm phần,
Tràng Sinh chính phát thập phần,
Gặp sao Quan, Phúc, Qủy thần chầu trông
Phúc, Liêm, nội ngoại thung dung
Khoa , Quyền, Xương , Khúc vốn dòng văn gia
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa
Đấy là đất phát đề đa anh hung
Cự Môn, Lộc, Lộc tương phùng
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Nay là đoán trước mấy lời,
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là,
Lại xem hướng mạch kể ra,
Trước lấy khởi tổ ấy là Tràng Sinh
Thanh Long lấy làm long hành
Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm
Phải lấy chi tự ( Địa Chi) phân kim
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan,
Trước có Dương Nhận, Hồng Loan,
Nga mi tác án yên bàn chẳng sai
Thanh (Long) Hồng ( Loan) là thủy nhập hoài,
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không,
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau,
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long,
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên
Bên hữu Bạch Hổ đã yên,
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này,
Lại xem tinh tú yên bầy.
Thái Dương, Vũ Tướng cùng rày Phá Quân,
Khoa, Quyền, Khôi, Việt tinh trần
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai
Còn như đoán mả đàn bà
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời
Tử, Phủ, tổ mộ chẳng sai
Lạc nhàn thì đoán xa rời mà thôi
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm, Đồng tứ, chẳng sai chút nào
Liêm Trinh bảy tám đời cao
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin
Cha còn thì đoán ông liền
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh
Thiên Phủ viễn tổ đã đành
Tham sáu , Cự bảy, Lương rành tám thôi
Phá Quân, Thất Sát xa đời
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà
Nếu còn thì kể đến bà
Ấy là âm mộ thuộc Tòa âm cung
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng
Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai
Suy xem tinh tính hẳn hoi
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này
Lại tùy chính diệu suy bầy
Lại nhân Không , Kiếp đoán rày lạc phân
Hoa Cái , Phượng Các tân phần
Tấu thư, Xương , Khúc là thần đồng ra
Hoặc khôi, Việt gia Hóa Khoa
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng,
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng
ấy là phú quý vốn dòng chẳng không
Tử Vi nhập miếu vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ
Lương, Tham thọ khảo kỳ di
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào,
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng Đào,
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh
Tuế , Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô Quả độc đinh thường thường,
Tang Môn, Quả Tú bất thường,
Ấy là trong họ gái thường quả phu
Phục binh ngộ Tử phải lo,
Có người bị trận, chết co ngoài đường,
Mộ cư Phúc Đức đường đường,
Lại gia Thai, Tọa ấy Trường sinh ta
Hỷ thần, Thiên Hỷ hoặc gia,
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu,
Lại bàn hình thế mọi mầu ( Ngũ hành các sao)
Tổ sơn là Tử, Phủ chầu kể ra
Mộc tinh là Thiên Cơ gia,
Kim Tinh vũ Khúc, Mộc là Tham Lang,
Văn khúc là thủy đáo đường
Liêm Trinh là hỏa, Thiên Lương Thổ này,
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm,
Thất Sát cũng Hỏa tinh lâm.
Phá Quân là thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng, Thiên Tướng đất binh,
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy
Mộc, Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp, Không lộ táng dương phần,
Kỵ, Riêu là thủy, sát nhân hoàng tuyền,
Thanh Long có suối lưu triền.
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường,
Khoa, Quyền là bản văn chương,
Lộc ; kỳ, Việt : kiếm, rõ ràng đóng đây,
Ấy là phần mộ đoán bày.
Cốt xem Phúc đức mới hay mọi đường.
4) Điền trạch cung
Bốn là bàn đến cung Điền,
Phủ, Vi đóng đấy, Tài Điền vượng thay,
Vũ, Cơ tài sản cũng hay,
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen,
Âm , Dương miếu ấy đa điền,
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân
Thiên Đồng hậu dị, tiêu nan,
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành
Cự Môn tổ nghiệp tan tành,
Sinh ra đổi chác sau rành được yên
Sát sinh bỗng chốc mà lên,
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường,
Phá Quân của khéo dở dang,
Nhược bằng ngộ hãm là tuồng khó khăn.
Tướng , Lương, Tả, Hữu khoa văn.
Việt , Khôi, Quyền , Lộc, Mã gần Trường sinh,
Điền viên đều vượng tậu tành,
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Đà, Kình lục tinh,
Nhị Hao, Kiếp Sát, Phục Binh,
Không Vong, Tang, Tú, Phù tinh vô điền,
5) Quan lộc cung
Năm là quan lộc đoán ngay,
Thái Dương, Xương, Khúc ở đây cung này,
Điện rồng chầu trực đêm ngày,
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường,
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Cơ, Lương,
Khoa, Quyền, Tử, Phủ họp cùng Trường Sinh,
Tướng, Đồng, Lộc, Mã, Vũ tinh
Đều là cát tú được mình hiển vinh.
Âm, Dương, Quyền, Lộc được rành,
Như bằng hãm địa ắt thành lại hao,
Liêm Trinh vũ chức, quyền cao,
Như bằng ngộ hãm, khỏi nào hình danh,
Tham Lang mà gặp Hỏa ,Linh,
Miếu thì phú quý, hãm: bình mà thôi,
Sát, Cự Tý Ngọ , ở ngôi,
Vượng thì vũ chức , hãm thời hình thương,
Phá Quân lao khổ trăm đường,
Nhược ngồi Tý, Ngọ tài thường vượng thay,
Tham Lang, Xương, Khúc ngày rày
Ngộ cung Tị Hợi quan này, làm ru,
Liêm , Tham, Đà, Nhận phải lo
Phải mang dan díu , quanh co bận mình
Phù , Tang, Không, Kiếp ,Hỏa, Linh
Khốc, Hư, Đà, Nhận, Kiếp, Kình Nhị Hao,
Phục Binh , Phá Tú xúm vào
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn
6) Nô Bộc Cung
Sáu là nô bộc đoán tường
Tử , Phủ, Tả, Hữu, Âm, Dương, Lương, Đồng
Việt , Khôi, Tam Hóa tương phùng
Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh,
Quý, Quang, Xương, Khúc cũng lành
Vũ Tinh mà đóng rành rành bản cung
No thì nó ở hầu ông
Đói thì nó bước chẳng mong nỗi gì
Liêm Trinh kìa nó càng ghê
Làm ơn nên oán bấc chì mỉa mai
Tham Lang vì nó hao tài
Cự Môn báo oán những lời thị phi
Sát thì sinh sự thị phi
7) Thiên Di Cung
Bảy là bàn đến Thiên Di
Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai
Vũ, Lương, cự phú chẳng sai.
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền,
Âm Dương, Tả, Hữu rất hiền,
Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân,
Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân,
Nhược bằng ngộ cát, mười phần tốt thay,
Liêm Trinh nội trở, ngoại hay,
Đi thì cũng lợi, mới tày Tham Lang.
Lại thêm dâm dục , hoang tàn,
Vũ Tinh xuất ngoại thường thường được yên
Cự Môn khẩu thiệt đảo điên,
Nhị Phù, Phá, Tú cùng miền Thiên Di,
Đoán rằng lộ thượng, mai thi,
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền,
Quán rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu
Cự Môn, Linh,Hỏa xung nhau
Tử ư đạo lộ ra mầu xo ro,
Liêm phùng Quan Phủ, Quan Phù,
Ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu
Kìa như đạo lộ phải âu,
Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di
Kìa ai ký ngụ, phong tư ( đời sương gió)
Bởi chưng Thất Sát, Nhị Phù, Kình Dương
Tứ Sát đóng chính cung tường,
Ách nguy thêm lại hại đường tổ tông
Vũ , Liêm chẳng khá đồng cung
Luận rằng số ấy bần cùng ai qua
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Dương, Đà,
Tham, Hình, Hóa Kỵ cùng là Khốc Hư
Phá Quân phương ấy phải lo,
Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng.
8) Tật Ách cung
Tám là Tật Ách chẳng âu,
Âm, Dương phản bội làm màu bất minh,
Mệnh cung lại có Không tinh
Nhãn manh mục tật, rành rành phải mang,
Phá , Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương,
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên
Khúc , Xương, Tả, Hữu vào miền.
Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa , Quyền, Đồng, Lương
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương.
Ốm thì lại gặp thuốc thang, sợ gì,
Thiên Cơ phải chứng thấp tê.
Nhược bằng gia Sát mặt thì vết ngang,
Phong đàm bệnh ấy liền liền,
Bởi sao Cơ, Vũ đóng miền Ách phương
Nhược bằng gia Sát trĩ sang.
Thái Âm đau bụng, Thái Dương buốt đầu,
Gia Đà, Kỵ, Sát cũng rầu
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau.
Phá Quân Khí huyết bất điều,
Đồng, Lương hàn, nhiệt là điều phải lo.
Tướng Tinh đau ở bì-phu,
Cự, Liêm, Nhật, Nguyệt, hình thù cơ nghinh
Đà La, Dương Nhận ít yên,
Đâu chân nhức mắt, chẳng hiền được đâu,
Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau,
Bởi đường sao ấy gặp hầu Tham Lang.
Sát Tinh thấp khí yếu đau.
Tứ Sát có bệnh bởi hầu Sát gia,
Tham Lang tật ách xông pha,
Lưng, chân có bệnh chẳng hòa được chăng,
Cự Môn mặt vết rõ ràng,
Chứ chi đới tật, xấu chàng hổ ai,
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai,
Dương, Đà, Linh, Hỏa cùng ngồi một phương.
Mặt kia có vết rõ ràng,
Lại thêm bệnh trĩ thường thường phải e.
9) Tài Bạch cung
Thứ chín kể đến cung Tài
Để mà thí nghiệm mấy lời kể ra
Vũ, Lộc, Thiên Mã cùng gia
Tử, Phủ mà gặp, phương xa nhiều tiền,
Tử-Vi, Phụ, Bật rất hiền,
Làm quan tài bạch ngoài miền lợi danh,
Thái-Âm mà với Vũ Tinh,
Luận bàn cùng phải rành rành chẳng sai,
Âm, Dương, Tả, Hữu giáp lai,
Có sao Đế-Vượng cùng ngồi chính trung,
Luận làm địch quốc phú phong,
Thiên-Đồng, Cơ, Vũ, tay không làm giầu,
Âm, Dương tài vượng chẳng âu,
Nhược bằng hãm địa, có, hầu lại không.
Sát Tinh đóng Tý Ngọ cung,
Hào tài hoạch phát đùng đùng chứa chan,
Chủ cung phút hợp phút tan,
Lộc-Tồn, Hóa-Lộc giàu tràn vẻ vang
Phá Quân tài tán chẳng thường,
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Khúc, Xương, Khoa, Quyền
Với sao Hóa Lộc ở miền,
Ấy là phát phúc, tài, điền vượng theo,
Liêm Trinh trước dở sau hay,
Lộc-Tồn, Vũ Khúc đóng rày Tài cung,
Ấy là đại phát phú ông,
Kiếp, Không ở đấy, bần cùng chẳng sai.
Dương Đà, Linh, Hỏa tán tài.
Hoa, Hình, Hư, Khốc là loài như nhau.
10) Tử-Tức cung
Thứ mười Tử Tức kế bầy,
Trước sinh nam-Tử, nhiều bầy Nam-Tinh,
Bắc Tinh ấy gái trước sinh
Nhật sinh kỵ Nguyệt chiếm rành bản cung,
Dạ sinh kỵ Nhật chiếm trung,
Âm Dương lâm Tý là vòng khắc xung,
Vắng sao chính diệu Tử cung,
Phải tìm đối chiếu luận cùng mới xong,
Phủ, Vi, Đế-Vượng, Thiên Đồng,
Khúc, Xương, Tả, Hữu luận cùng năm tên
Nhược bằng gia Sát cũng hên / hèn (?)
Tràng-Sinh, Nhật-Nguyệt, Lâm-Quan một đoàn
Tướng, Lương, Quan-Đới rõ ràng,
Ấy là cũng được ba hàng thành thân,
Khoa, Quyền, Hóa-Lộc tinh trần
Việt, Khôi, Thiên Mã mười phần quý nhân
Cự, Cơ, Liêm, Tú Phá Quân
Bệnh, Thai, Mộc, Dưỡng ấy phần có hai
Suy thì có một mà thôi
Dương, Linh, Đà Hỏa cùng loài như sau
Kiếp, Không, lại gặp phải rầu
Cũng như Thất-Sát càng sầu cô đơn
Kỵ, Hình, Tử, Mộ một đoàn
Và sao Hư, Khốc phải phòng khắc xung
Lộc Tồn có một chẳng không
Hoặc là lại gặp quá phòng con nuôi.
11) Thê-Thiếp cung
Mười một bàn đến Thê cung
Nhân thê trí, phú bởi phùng Thái Dương
Âm phùng Hao tú một phương
Thành hôn chẳng lọ phải đường cưới xin
Nhật-Đồng nhiều vợ mà hiền
Kìa như Lộc, Mã tài điền vượng thay
Nguyệt phùng Xương, Khúc ngày rày
Cung trăng bẻ quế xem tầy lên tiên
Tử, Phủ hòa hợp bách niên
Đồng, Cơ trai gái kết nguyền cũng xinh
Trai tơ gái trẻ đã rành
Âm, Dương miếu địa sớm thành nhân duyên
Nhược bằng hãm địa sau nên
Vũ Tinh gia Sát mặc bên khiếm hòa
Tướng, Lương sớm nổi thành gia.
Sát gia sắc đẹp lấy nhà trưởng nhân,
Khúc, Xương, Tả, Hữu tinh trần
Thông minh giai lão trăm phần tốt thay,
Lộc Tồn muộn vợ những hay
Tham-Lang sớm lấy người rày khắc xung,
Tham mà gia Sát tối hung,
Phá Quân sớm khắc, ít lòng chính chuyên
Liêm Trinh phải khắc ba tên,
Cự Môn, Thất Sát luận bàn cũng in,
Sát Tinh xung khắc đã quen,
Người ấy dâm dục về miền trăng hoa
Khôi, Việt, Hóa Lộc, Quyền, Khoa
Quý nhân sánh mấy duyên ta tốt lành
Linh-Tinh, Kỵ, Hỏa, Đà, Kình,
Khốc, Hư, Không, Kiếp, đã rành khắc xung
Nhược bằng cát tú tương phùng,
Cũng là là giúp được vào vòng thiểm ninh
Tam phương mà gặp Sát, Hình,
Ly hương kết phối rành rành chẳng sai.
12) Huynh-Đệ cung
Mười hai Huynh đệ bàn liền,
Triệt, Không cùng thấy trong miền bản cung
Bắt đầu thì đoán khắc xung,
Hoặc gia Địa-Kiếp, Thiên Không chẳng nhiều
Tướng-Quân, Lộc, Mã cùng triều,
Anh em giàu có, phú nhiêu được dùng,
Tướng-Quân, Lộc, Lộc tương phùng,
Anh em có kẻ ở trong cửa quyền,
Tràng-Sinh Đế vượng lâm liền,
Anh em có kẻ tất nhiên yên bài.
Đôi bên Nhật, Nguyệt giáp Thai,
Sinh đôi một đốt chẳng sai tí nào,
Vượng Thai, Tuyệt Tướng thấu vào
Anh em ắt có dị bào chẳng không,
Đào Hoa, Riêu, Hỷ trong cung
Phá Quân tinh xứ đối cung ở ngoài
Có chị em gái theo trai,
Say mê đến nỗi hoang thai hổ mình
Trong thì Tướng, Phá, Phục Binh
Ngoài thì Hoa Cái cùng tinh Đào, Hồng
Ở cung đối chiếu trực xung
Anh em có kẻ dâm thông hẳn là,
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa,
Thiên Hình thường có trong nhà đánh nhau,
Lộc, Mã buôn bán làm giàu
Nhược bằng Vũ, Tướng ra mầu thợ công,
Tử-Vi, Tả, Hữu, tương phùng
Có chị em gái lộn chồng đi ra,
Thiên Khôi ba kẻ anh ta,
Thiên Việt ba kẻ em ta bầy đoàn
Xương, Khúc, Thái Tuế đều yên
Có người xã trưởng khôn ngoan ai cùng.
Tuyệt, Không, Không, Kiếp chính cung
Hoặc gia cát hội lại phùng Dưỡng Tinh
Luận làm nghĩa dưỡng anh em
Hoặc thêm Đà, Nhận, Hỏa, Linh, đoán cùng
PHỤ ĐOÁN Luận nữ mệnh
Lại xem trong số đàn bà,
Cần là Tử tức cùng là Phu-Quân,
Gái hiền có phúc, có phần
Nữ nhân phú-quý tấm thân nhờ chồng.
Mệnh mà phú quý vô dùng
Điền, Tài lại cốt hai cung vẹn tuyền.
Phu Quân Thìn, Tuất cung nhan,
Mệnh, Thân Dậu, Tuất muôn vàn kể chi,
Chép Nhật, chép Nguyệt số kỳ,
Giáp Tả, giáp Hữu kẻ vì, người mong,
Tử cung Nhật hãm chẳng không,
Mệnh cung Hóa Kỵ ngại ngùng mây xâm
Hồng Loan, Tử, Vượng đồng lâm,
Phu Quân cung ấy mừng thầm vượng thay.
Xem trong Tử tức cung này,
Nhị-Minh (Nhật, Nguyệt) Thiên Hỷ thật hay rành rành
Phượng, Long đẹp đẽ, hiền lành,
Khốc, Hư táo tợn bụng rành hiếu trung.
Hỷ, Riêu đêm ngủ mơ màng,
Tính hay dối trá, Kiếp, Không đóng dồn,
Thai, Hoa, ngộ Kiếp hiếm con,
Thai phùng Nhật, Nguyệt lâm bồn song sinh
Mã phùng Đào tú linh đinh
Dương phùng Thái Tuế e mình khẩu tai,
Ách cung e ngộ Dưỡng, Thai
Mệnh hiềm Nhật, Nguyệt, gặp hai Dương, Đà
Tấu-Thư, Hoa Cái lượt là,
Phượng, Long lấy được chồng là quý nhân
Tướng, Loan, cung ngự phi-tần
Mộc, Cái thủ mệnh nhiều phần dâm phi
Phu Quân có Tham Lang vì,
Chính tinh làm cả, bàng thì làm hai,
Mệnh cung Xương, Khúc chiếu hai
Dẫu nhân duyên sớm nhưng người dâm phong
Lộc, Mã ích tử, vượng chồng,
Ví đồng Tử, Phủ ngự cung ra vào.
Thái Âm hãm tử chẳng sao.
Thái Dương mà hãm lẽ nào có con,
Liêm Trinh gặp Tham gian ngoan,
Thiên Đồng ngộ Nguyệt đông đàn chắc thay
Hóa-Lộc tài bạch buôn may,
Thiên Riêu, Xương, Khúc cả ngày vuốt ve
Trưởng huynh, huynh đệ Tử-Vi,
Thiên-Phủ tài bạch vậy thì phong doanh,
Hao tài bởi có Thiên Hình
Không Vong ngộ mã quyết tình ly hương,
Phá phùng Triệt-Lộ chết đường
Văn tinh sinh trễ, văn chương dịu dàng,
Cát tinh tọa chiếu rõ ràng.
Sinh con tài tướng, vẻ vang anh hùng.
Nguyệt phùng Phá, Kỵ phúc cung,
Nữ nhân cả họ dâm phong đó mà.
Thiên Lương người béo đẫy đà,
Thiên Đồng dư dật rồi mà hiển vinh,
Hình, Hỏa: mộc áp lôi kinh,
Phá Quân, Thái-Tuế tụng đình giáo toa
Loạn luân Thiên-hỷ Đào-hoa
Triệt, Tuần tương ngộ xiêu nhà kéo đi
Sát Phá nghèo khó có gì
Tang-môn ngộ Hoả có kỳ hoả tai
Thiên-riêu, Tham, Kỵ trùng lai
Phòng khi sông nước có thời chẳng yên
Đào-hoa, ngộ Kiếp đắm thuyền
Kình-dương, Linh, Hoả cuồng điên hẳn là
Cự, Đồng, Phá, Triệt cung gia
Có người phá cốt chiết nha rành rành
Ngọ yên mệnh Tử tương tinh
Đã hay chồng quý lại sinh con hiền
Liêm-trinh thanh bạch giữ gìn
Mệnh bền: Tỵ, Hợi giao chiều Lương, Âm
Thiên-cơ phá đảng chẳng nhầm
Hoá hồng Vũ-khúc, chính dâm Kỵ mà
Kiếp, Không, Tử Sát cùng gia
Có Tham, Liêm, Sát chiếu ba phương vào
Nhược bằng hiếu ở Phu hào
Ấy là toạ hoạ lao đao cả đời
ĐOÁN VẬN NIÊN SINH, TỬ
Lại xem sinh, tử đoán niên
Vận niên Thái tuế, lưu niên cung nào
Sát, Dương, Thương Phục, Không, Hao
Hỏa Linh, Kỵ, Kiếp chiếu vào hạn trung
Ghê thay Đại, Tiểu (hạn) trùng phùng
Đế tinh thụ hãm Không-Vong đó mà
Ấy là vận hạn khó qua
Lại Tham, Sát, Phá, trúc la thoát nào
Đế, Tướng, tam hợp chiếu vào
Họa may không chết, bởi sao cát phù,
Bảo cho biết trước mà lo….
PHỤ ĐOÁN TỔNG QUÁT
Mệnh, Thân và Hạn tốt đều
Càng gia càng được mỹ miều vinh xương
Mệnh Thân và Hạn tương đương
Xét ra xấu cả là phường hàn vi
Giáp Quý, giáp Lộc rất kỳ
Khoa, Quyền lưỡng giáp thật thì số hay
Giáp Nhật, giáp Nguyệt họa may
Giáp Xương, giáp Khúc số này rất sang
Giáp Không, giáp Kiếp lang thang
Kình, Đà lưỡng giáp, nhỡ nhàng ăn xin
Liêm Trinh sa sút rất hèn
Vì chưng Tỵ Hợi đóng miền Mệnh Thân
Thái Âm chiếu đến dạ phân
Nhất sinh khoái lạc, mười phần không sai
Tiền bần, hậu phú mấy người
Mệnh Thân cung ấy giáp bày Vũ, Tham
Hậu bần : giáp Kiếp đã cam
Lộc, Quyền : Tài, Phúc, xuất phàm vinh hoa
Cả đời bần tiện đó mà
Kiếp, Không : Tài, Phúc, thật là không thay
Khúc, Xương nhiều học mà hay
Tả Phụ, Hữu Bật khoan thai dễ dàng
Phủ, Tướng y lộc khác thường
Làm quan chắc hẳn nhiều đường hạnh thông
Thất Sát Triều Đẩu hãn phòng
Vinh xương tước lộc, tôn sùng biết bao
Đồng cung Tử, Phủ đóng vào
Chung thân phúc hậu lẽ nào chẳng hay
Tử Vi cư Ngọ cùng đây
Bằng không Sát phạm, ngôi này công khanh
Thiên Phủ lâm Tuất sao lành
Đai vàng áo tía, rành rành không sai
Khoa, Quyền, Lộc cũng mấy người
Miếu viên Vũ Khúc, rõ mười hách danh
Kìa như Lộc Ám Khoa Minh
Quan sang đến tận quân hành Tam Thai
Đồng lâm Nhật, Nguyệt số ai
Quan cư hầu vệ, đáng tài tước phong
Lại nhờ Cơ, Cự đồng cung
Ngôi rành chắc hẳn, đến vì công khanh
Tham, Linh tịnh thủ ai bì
Nổi danh tướng tướng thật là vẻ vang
Việt, Khôi cái thế văn chương
Thiên Khoa, Thiên Mã, nhẹ đường khoa danh
Văn Xương, Tả Phụ cát tinh
Ngôi cao bát vị hiển vinh trùng trùng
Hỏa, Tham miếu vượng uy hùng
Đồng cung Cự Nhật, quan Phong ba đời
Triều viên Tử, Phủ mấy người
Muôn chung hưởng được lộc trời tốt sao
Khoa, Quyền đối cũng chiếu vào
Vũ môn ba bậc, nhảy cao rành rành
Khen cho Nhật Nguyệt Tịnh Minh
Cửu trùng cung điện, hiển vinh giúp cùng
Phủ, Tướng đồng hội mệnh cung
Cả nhà ăn lộc, muôn chung sang giầu
Số kia Tam Hợp Minh Châu
Thiềm cung nhẹ bước, điểm đầu chu y
Phá Quân, Thất Sát hay đi
Đồng, Lương, Cơ, Nguyệt thật thi lại nhàn
Tử, Tướng, Nhật, Nguyệt tinh trần
Công hầu sĩ khí, tiến thân cửu trùng
Nhật, Nguyệt, Khoa, Lộc Sửu cung
Đoán là phương bá, cự công tiếng đồn
Kìa như Nhật chiếu lôi môn
Vinh hoa phú quý, cực tôn vô cùng
Lại như Nguyệt lạc Hợi cung
Gia quan, tiến chức, hầu phong đó mà
Dần cung Thiên Phủ đồng gia
Ngôi thang nhất phẩm, thật là vẻ vang
Ngộ phùng Tả, Hữu cùng phương
Ngôi cao bát tọa, rõ ràng hiển vinh
Lương cư Ngọ vị quan thanh (liêm)
Khúc phùng Lương tú, ngôi dành Thai cương
Dần Thân mừng hợp Đồng, Lương
Cự Môn Thìn Tuất, ngại đường hãm xung
Lộc đảo, Mã đảo Không Vong
Tử Vi vào hạn, giải hung ác trừ
Cự cư Mão vị làm sư
Trinh cư Mão Dậu, công tư tại tào
Nhận cùng Vũ Khúc khéo sao
Tham Lang hãm địa, thớt dao bán hàng
Cự Môn Tý Ngọ tương đương
Thạch trung ẩn ngọc, rõ ràng quý nhân
Tử Vi Thìn Tuất Phá Quân
Phú nhi bất quý, chịu đường hư danh
Phần nhiều lao lực, lênh đênh lạ lùng
Tuất cung phản bội Thiên Đồng
Tuổi Đinh hóa tốt, phú phong tiếng đồn
Thìn Tuất hãm địa Cự Môn
Tuổi Tân hóa tốt, lộc còn vẻ vang
Dậu cung rất kỵ Cơ, Lương
Nhật, Nguyệt phản bội, thanh quang mong gì
Chu Bột làm tướng chính vì
Tuần phùng Khoa, Lộc một khi đó mà
Kìa người Giả Nghị đăng khoa
Văn Tinh ám củng, thật là tốt thay
Bất phong Lý Quảng xưa rày