Phú Tử Vi Ma Thị Tiên Sinh
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 49 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Phú tử vi Ma Thị Tiên Sinh – Được Biên dịch bởi người Túc nho – Họ Bùi, người Thanh Hóa. Cũng như Phú Nôm Tử Vi Ảo Bí, Phú Nôm Tử Vi được các tiền bối đi trước am hiểu về tử vi đúc kết lại thành những vần thơ và lưu lại đến các đời sau, qua nhiều chiêm nghiệm tôi vẫn thấy những bài phú nôm này vẫn ứng nghiệm đến tận bây giờ.
Phú tử vi Ma Thị Tiên Sinh – Được Biên dịch bởi người Túc nho – Họ Bùi, người Thanh Hóa. Cũng như Phú Nôm Tử Vi Ảo Bí, Phú Nôm Tử Vi được các tiền bối đi trước am hiểu về tử vi đúc kết lại thành những vần thơ và lưu lại đến các đời sau, qua nhiều chiêm nghiệm tôi vẫn thấy những bài phú nôm này vẫn ứng nghiệm đến tận bây giờ.
Ngôi Tử-Vi đóng vào chốn hãm
Quyền giải hung, thiểu giảm vô uy.
Phủ phùng Không, Sứ tài suy.
(Thiên Phủ ở mệnh, Điền mà ngộ
Thiên Không, Tuần Không, Địa Không)
Chung thân nan bảo, tư-cơ lưu truyền
Mấy người phú quí nan tuyền.
Bởi sao Nhật, Nguyệt chiếu miền Sát-tinh
(Sao Âm, Dương ngộ Riêu, Đà, Kỵ, Không, Kiếp)
Mấy người bất hiển công danh,
Là vì Nhật, Nguyệt đồng lâm Sửu, Mùi.
Song Nhật, Nguyệt hãm bên trong,
Xương, Khúc, chiếu, giáp; hưng long Phúc, Tài.
Mấy người nịch tử, hoả tai,
Phá Liêm gặp Hoả; Riêu ngồi Kỵ, Tham.
Khốc, Hư ngộ hạn mạc đàm
Hạn phùng Không, Kiếp ai làm cho nên.
Phượng, Long, Mão, Dậu đôi người
Vượng thời Kim bảng đề tên ở đầu.
Ân-quang, Thiên-quí, Sửu, Mùi,
Đường mây gặp hội danh cao bảng rồng.
Quan cung mừng được Đào, Hồng
Thiên-di tối kỵ Kiếp, Không Lâm vào.
Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm, giáp Sát, một hào chẳng sai
(Quan lộc giáp Liêm, Thất-sát)
Giáp Bát-toạ, giáp Tam-thai,
Thiếu niên dự được lâu đài nghênh ngang.
Thiên, Nguyệt-đức có Giải-thần.
Cùng là Quan Phúc, một làng trù hung.
Sét cho tường, chốn thuỷ cung
Kỵ tinh lạc hãm. Khoa, Đồng, Kình-dương
(Cung Hợi, Tý gặp các sao kể trên)
Đà đắc địa, Hoả chiếu phương
Linh-tinh hạn gặp tai ương chẳng lành,
Mấy người ít tuổi công danh,
Hồng-loan, Bát-toạ ở mình chẳng sai.
Xét xem phú quí mấy người,
Mệnh vô chính diệu trong ngoài Tam không
(Thiên Không, Địa Không, Tuần Không)
Đẩu-quân kỵ Tử tức cung
Kiếp, Cơ, tật ách phải phòng huyết hư.
Hạn lâm Riêu, Hổ khá lo,
Những loài thú dữ chớ cho đến gần
Vận hành Kỵ, Cự hung thần,
Phải phòng những chốn, giang tân mới lành.
Âm Dương đôi ngả cho minh
Âm tòng âm số, Dương hành dương cung
(Tuổi âm ở cung âm, dương ở dương,
tuổi âm gặp sao âm, dương gặp sao dương)
Hạn hành đại tiểu tương phùng
Cát thời thịnh vượng, hung thời chuân chuyên.
Dương, Đà xâm nhiễu Mệnh viên
Nói hay loạn thuyết những phiền lo tai
Số muộn màng con trai chưa có
Vì Kỵ, Đà len lỏi Tử cung
Ách phùng ác sát trùng xung
Khí Âm lạnh lẽo chẳng trùng khí Dương
Hồng-loan ngộ Kiếp, Không lâm thủ.
Sá chi bàn những lũ yểu vong.
Kỳ, Đà, Thái-tuế, Thân trung
Khỏi nạn lại được thung dung mấy người.
Phượng, Long, giáp Mệnh có tài
Trước sau vinh hiển, ra ngoài nổi danh
Sao Quang, Quí ấy Khoa tinh
Lâm vào Thân, Mệnh cao danh bảng rồng
Ngồi Quí hướng, chẳng phùng Không-Sứ
(Mệnh, Thiên Phủ ở Sửu Mùi giáp Âm, Dương)
Gặp khoa thời, thủ cử chẳng sai
Giáp Nhật, Nguyệt trong ngoài Đồng, Cự
(Mệnh Tham, Vũ ở Sửu Mùi)
Ấy công thành danh toại khá khen
Con em sạ khứ, sạ hoàn
Bởi sao Nhật, Nguyệt hãm ngồi Nô cung
Bệnh lao, đàm thấp chẳng thông,
Bởi vì Tật ách, đã phùng Kiếp, Cơ.
Kiếp, Không hai gã khá lo
Lâm vào Huynh đệ cô đơn một mình.
Mẹ cha có phúc lành thượng thọ
Phụ mẫu cung phải có Thiên-lương
Cung Thê thiếp Đồng, Lương hội đó
Hai vợ cùng, một tổ sinh ra
(Hai chị em lấy một chồng, hoặc 2 người vợ cùng họ)
Sao Thai mà ngộ Đào-hoa
Tiền dâm hậu thú, mấy ra vợ chồng.
Mệnh viên gặp Kiếp, Không lâm thủ
Kể chi bàn những lũ yểu vong
Ấn mang, vị liệt Công Hầu
Sao lành Tướng, Cáo hội vào Mệnh cung
Làng có giếng bỏ hoang chẳng uống
Sao Mộc tinh, đóng ở Tật cung
Nhật phùng hãm ngộ lưỡng Long
Có người phương ý, vẫy vùng không lên
(Nhật, Long-trì, Thanh-long ở cung Điền, Nô… có
người chết đuối ở đấy)
Long-trì, Địa-kiếp cũng chen (Cung Điền)
Giếng bồi ao lấp, ở bên nhà này
Thiên-cơ ngộ Hoả chẳng hay
(Điền có Cơ ngộ Hoả nhà bị cháy)
Phùng Không, Kiếp Mộc nỡ đầy quải lưu
(có Cơ cùng các sao trên có ma mộc)
Ngộ Hổ có thạch khuyển chiều
Ngộ Dương, Đà có thạch đầu dựng cao
(Hổ có chó đá gặp Dương, Đà chó đá chôn
dưới đất lâu ngày thành tinh)
Cái răng Bạch-hổ phù soi
Lai gia Tang, Điếu thương ôi nàng tuyền (vợ chết)
Tang-môn ngộ Hoả xấu sao
Nó vào phương nào, phương ấy hoả tai
Bệnh-phù ngộ Thiên-hình vô lợi
Ắt có người chịu tật phong sang
Phụ, Vi, ở Phúc-đức cung,
Phản phu có kẻ, họ hàng chẳng không.
Đào, Hồng, Sát, Phá, Tham, Liêm,
Lâm vào số gái chỉ hiềm sát phu
Tang, Đào ở Mệnh cung sau trước (hợp mệnh)
Gái đã đành lỡ bước cầu ô
Ngọc trầm có vết đen tô (chỗ hiểm có nốt ruồi)
Thiên-khôi tại Tý, thủ đầu Mệnh Thân
Nhật, Nguyệt ngộ Đà tinh chốn hãm
Hoá-kỵ gia, mục ám bất minh,
Việt, Linh lại có Thiên-hình
Địa phương ắt cũng đã đành lôi kinh (sét đánh)
Ngộ Cơ, Lương, đánh gẫy cành
Ngộ Âm, Dương ấy đã đành tan không
Hình, Riêu, Mệnh gái long đong
Ví chẳng lộn chồng, ắt cũng phản phu
Sao Kỵ, Đà hội Phu cung
Hại chồng chước quỉ, tính đường tinh ma
Riêu, Đào số gái ai hay
Chồng ra cửa trước, giắt tay trai vào
Ngộ Hình, gặp Quí dám đâu (đứng đắn)
Cùng là Tử, Phủ một mầu chính chuyên
Ghen đâu mà chẳng biết chồn
Tham cư vượng địa, phải nên đề phòng (hay ghen chồng)
Lỗ tai điếc lác lo phiền
Dương, Đà, Không, Kiếp, Cự miền Mệnh cung.
Mệng ấp úng nói không ra tiếng
Vì Tuế, Đà, Riêu, Cái Mệnh viên
Âm, Dương, Tuần, Triệt tại tiền
Mẹ cha ắt đã chơi tiên thuở nào.
Phúc-đức ngộ Tang, Đào, Hồng, Hỷ
Họ hàng thường có kẻ yểu phu
Lưu Tang, lưu Mã gặp nhau
Hạn cùng năm ấy Bò Trâu chẳng lành
Tham-lang, Bạch-hổ nào sinh
Dần, Tuất chốn ấy, lánh mình sơn lâm
Thai tinh ngộ Thái-âm cung Tử
Con phải vì cầu tự mới nên.
Tử cung Thai, Tướng, Phục-binh
Vợ chồng ắt có tư tình nơi nao (có con riêng mới cưới)
Họ hàng có kẻ binh đao
Tướng, Tuyệt, Tử, Phục lâm vào Phúc cung
Ân-quang phùng Đào, Hồng, Điền-trạch
Ấy cô dì lưu lại ruộng nương
Vợ chồng viễn phối tha hương
Đào, Hồng đóng chỗ vào hàng Thiên di.
Quan-phù, Tấu, Tướng, nghề gì?
Mệnh phùng Tả, Hữu tăng ni kẻo nào.
Hồng-loan, Tấu, Vũ, Hỉ, Đào,
Nhạc phường ca vũ danh vào cửa quan (con hát)
Hình, Cơ, Khúc, Tấu một đoàn,
Trong nghề thợ mộc, khôn ngoan ai tầy.
Khéo nghề kim chỉ vá may
Cơ, Tang, Hồng, Phúc ở rầy Mệnh cung
Hồng-loan ngộ Kỵ, Phu cung
Tơ hồng chưa tắt má hồng đã xui
(vừa bỏ chồng, hoặc chồng chết đã có người mai mối)
Hoả, Linh ngộ hãm Thiên-riêu
Ắt trong mình ấy, có tà chẳng yên.
Phụ, Bật, Khúc, Tướng đồng viên
Ngôi cao chính viện danh truyền y quan.
Phụ, Bật ngộ Thái-âm nhàn (cung Hợi)
Gái làm bà đỡ cứu đàn nhi sinh
Thiên-tài ngộ Nhật bất minh
Nết na lung láo, những khinh phật thần
Tý, Sửu Mệnh; Ngọ, Mùi nhân
Kiểu cư ngộ sứ, chẳng gần bản tông
(ly hương, hoặc dòng họ khác)
Thê cung Kiếp, Không trùng xung
Trải hai, ba độ mấy xong cửa nhà
Tử cung ngộ Kiếp, Không gia
Nuôi con chẳng mát, đã ba bốn lần.
Khốc, Hư lại ngộ Dưỡng thần
Sinh nhiều nuôi ít, gian truân thuở nào
Hiếm hoi bởi ngộ Thiên-hình
Quí tinh trước cửa, đầy sân quế hoè
Không ngộ Phá, Tú Thê hào
Vợ chồng cách trở ba tao mới thành
Triệt, Tuần ngộ Mã, Hình Thê vị
Vợ bỏ chồng đào tị tha phương
Phá phùng Hình, Kỵ Huynh hương
Anh em bất thuận nhiều đường khi tranh
Phá-quân ngộ Hoả, Đà, Dương
Lâm vào Thìn, Tuất nết thường gian phi.
Thiên Hình, Dương-nhận Ngọ vì,
Lại gia Kiếp, Sát ưu nguy hình tù
Riêu, Đà, Dương, Sát cung Phu
Lại thêm Linh, Hoả vợ lo giết chồng.
Hoa-cái, Phượng-các, Đào, Hồng,
Trai toan nể vợ, trong lòng khôn khuây.
Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất
Gái bạc tình, Tham, Sát nhàn cung
Hạn phùng Riêu, Hỷ, Đào, Hồng
Giái, trai mà tưởng trong lòng dâm phong.
Quan-phù, Thái-tuế vận phùng
Tháng ngày chầu trực cửa công bồn chồn.
Cơ, Lương, Thái-tuế, Tang-môn
Lâm vào chốn hãm, cành con chớ trèo
Kỵ, Đà, Sát, Ách liền theo (cung Tật)
Qua sông vượt bể ba đào chớ đi.
Tướng hãm phùng Không, Kiếp vì,
Làm quan thời chẳng cách quan mà về,
Phù, Hình, Không, Kiếp khả chê
Kẻ thù người ghét, toan bề nghịch hung.
Thai tinh, Long (Thanh Long), Hỉ vận này
Vợ thời thai dựng đến ngày khai hoa.
Kình-dương, Hoa-cái ngộ Đà
Hạn hành năm ấy, đậu hoa phải phòng (lên đậu)
Phục-binh, Tuế, Kỵ, Kiếp, Không
Cùng người tranh cạnh, trong lòng chẳng nguôi.
Khoa, Quyền, Lộc, Mã, Văn, Khôi,
Công danh thành toại đến hồi hiển vinh.
Khốc, Hư ngộ Tang chẳng lành
Thương người bại của chẳng yên được nào.
Kiếp, Hư, Hình, Kỵ, Đà, Dương,
Gian nguy tật bệnh, dở dang ngại dần
Vận phùng Lộc, Mã cùng lưu
Dương, Đà, Kỵ, Nhật mắt đau phải phòng
Ngại hiềm Mã ngộ Không vong
Giặp sao Tả, Hữu hạn phùng cả đôi.
Hoả, Linh, Trì, Mộc, cùng soi
Lánh mình lửa cháy, nước sôi phải phòng
Hổ, Đà, Kỵ, Nhận tân toan
Đề phòng chó dại, hầm thiên dậy loàn.
Vũ, Cơ, Lộc, Mã, Quả, Loan
Hôn nhân vận ấy, ứng hoàn thất gia
Dương, Phục, Vũ ở toà Ngọ vị
Vận gặp thời, chức trị Quản binh.
Dậu cung Thái-tuế, Thiên-hình
Tai sinh hoạ chí, dị sinh gông cùm.
Quan, Không, trùng kiếm, Võ, Tham
Đường mây thuở ấy đã cam bôn trì
Khốc, Hư ở Tý, Ngọ vì,
Quan cung lại gặp tiếng thời đồn xa.
Dần, Thân, Kỵ, Sát(Kiếp-sát) trùng gia,
Thương chiêu đã nhục, thực là gian nan.
Vợ giầu của cải muôn vàn,
Thái-âm ngộ Đức, Ân-quang, Mã, Đồng.
Thiên-hình, Sát, Hổ Tử cung,
Đến già chẳng thấy tay bồng con thơ.
Sinh cong điếc lác ngẩn ngơ,
Tử cung, đối chiếu Sát, Đà, Kiếp, Không.
Cơ, Lương, Lộc, Mã đồng cung
Phú gia địch quốc của dùng siết đâu.
Ngôi cao đức trọng công hầu
Mệnh phùng Quyền, Sát ở đầu Ngọ cung.
Hình lâm Quan lộc cư Đồng (Dần, Mão)
Quản binh dẫn chức ân hồng quân vương.
Quan cao chấn ngự biên cương
Ngọ cung kiến Sát, Tử, Lương, Vũ, Đồng
Khôi, Lương, Thanh, Việt, Cái, Hồng
Trai cận cửu trùng, gái tác cung phi
Hồng, Khôi, Xương, Tấu phù trì
Sân rồng kéo bảng, danh đề ở cao.
Kỵ gia ở cửa màn đào (cung Tý)
Làm nghề thuật sĩ, phong lưu nuôi mình.
Thê, Nguyệt-đức ngộ Đào tinh,
Trai lấy vợ đẹp, gái lành chồng sang.
Trong ngoài mà có Âm Dương
Ba lần danh dự một làng quan giai.
Khôi, Việt, Quyền gia trong ngoài
Trưởng nam, trưởng nữ gái trai đồng lần.
Mệnh Hoá-kỵ, tật Mộc thần
Âm ti, nang thấp, nhiều phần chẳng sai.
Lộc, Quyền nhờ bạn tri âm,
Lộc, Hồng của vợ, lấy đem làm giầu. (cung Thê)
Sát phùng Phù, Hổ hay đâu,
Dạ Tràng thủa ấy âu sầu ngục trung.
Dương, Đà ngộ Mã tai xung,
Những lo đánh bắc, dẹp đông chẳng rồi.
Thiên Di bầy Mã, Binh ngồi
Đông trì, tây tẩu, pha phôi cõi ngoài.
Kiếp Không lâm vào Phúc Tài
Luận chưng số ấy, linh lai khó hèn
Triệt, Tuần đóng ở cung Điền
Tư cơ cha mẹ không truyền đến cho.
Kiếp, Không gian phi quanh co,
Đề phòng kẻo phải lộ đồ khảm kha
Hoả-tinh ngộ hãm oan gia
Hiệu là lửa cháy mấy hoà khỏi tai
Đại-hao lâm vào Phúc, Tài
Tán nhiều, tụ ít mấy ai nên giầu
Tử cung Không, Kiếp trùng giao
Bệnh phùng huyết tán thai bào phù hoa
Tật cung Hoá-kỵ cùng gia
Dương, Hư chứng ấy, ắt là hiếm con
Dương, Riêu bệnh ghẻ phong môn
Tuế, Đà loạn thuyết xuất ngôn chiêu nàn
Mệnh Đào, thân lại Hồng-loan
Vận phùng Tuế, Kiếp đả hoàn thê nhi
Hạn lưu Tuế Mệnh một vì
Gặp chưng năm ấy, vận thời gian nan (Lưu Thái tuế vào bản Mệnh)
Tham, Liêm Tị, Hợi chớ bàn
Văn Vương thuở nọ, tân toan ngục tràng
Dần, Thân, Xương hội Tham-lang
Vận ông Quản Trọng phải vào nhà Linh (hạn tù)
Kiếp, Không nhị vị khả ưu
Gặp sao Thiên-giải nhẽ cầu lại yên
Phá phùng Mão, Dậu khá phiền,
Thấy sao Nguyệt-đức tế liền lại qua.
Lao đao sớm tối bơ vơ,
Mệnh cung Cơ, Kỵ hản ra nhị vì.
Long đong đông tẩu, tây trì,
Chẳng qua Thiên-mã Thiên-di hãm nhàn.
Chơi bời du thuỷ, du sơn
Thiên-di gặp Mã hợp chàng Đà-la
Vợ chồng nay giận mai hoà
Phục-binh, Hoá-kỵ một toà thê cung
Khôn giò siết nỗi sâu nông
Sửu, Mùi, Tham, Vũ hội đồng Khúc Xương
Tí cung Thiên-phủ, Kiếp, Dương
Cuồng ngôn loạn ngữ nhiều đường loanh quanh
Thìn, Tuất, Thất-sát một mình
Gia trùng xung hạn, khôn thành hung phương.
Kỵ tinh, Xương, Khúc đồng hương
Nhan Hồi số ấy, nghĩ càng thêm thương (yểu tử)
Bệnh-phù, Thái-tuế rõ ràng
Sửu, Mùi, Thìn, Tuất gặp Lương lại lành
Thiên-đồng cư Ngọ ngộ Kình
Một phương hùng cứ tiếng tăm anh hùng.
Cây Đào mọc ở Nô cung
Vong phu mắc tiếng, bất chung cùng chồng
Phúc cung ngộ hãm Kiếp, Không,
Họ hàng nhiều kẻ hành hung phi loài
Phá quân sao ấy tán tài
Lâm trạch bán hết lưu lai tổ điền.
Tiểu hạn, Cự, Vũ, Hoá-quyền
Chiếu hoa chấn thủ một bên phương ngoài
Mộ phùng Tả, Hữu đồng lai
(hạn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi)
Thăng quan tiến chức miếu đài nổi danh
Việt, Khôi, Trì, Các, Văn tinh
Vào thi ắt hẳn bẻ cành quế hoa
Sát phùng Tồn, Tử giải qua,
Một sao Kỵ đóng ắt là tốt tăm.
Thiên-lương ngộ Hoả chiếu lâm
Hại người tổn vật, ầm ầm tai ương.
Hãm tinh gia lại hãm Dương
Chẳng sinh kiện sự, thời thương thung đường
Sứ, Thương, Cơ, Hoả, Cự, Dương
Suy người, hại của nhiều phương ưu phiền
Kiếp, Không, Hao lại gặp Quyền
Nghe rèm liên luỵ, kẻ trên chẳng dùng.
Đại, tiểu ngộ Tham-lang xung
Phá tài, tổn của ắt phùng nhị Hao.
Linh phùng Sát, Phá hạn cao
Vua Văn thủa nọ phải vào ngộ linh
Hổ ngộ Âm miếu cũng xinh
Siêu thiên quan chức, vận lành mừng vui.
Cung Điền liền gặp Cơ, Lương
Mộc lâm tổ nghiệp, đến hồi sinh tại (hoán cải)
Thiện tinh (Cơ) chiếu ở phương Đoài(Thân)
Có người lấy của phật đài hoạ to.
Dương gian gái đẻ phải lo
Kỵ lâm thường thấy tay vo bụng nằm (cung Tật)
Ám tinh (Hoá Kỵ), Tham diệu đồng sâm
Gia trung thất vật gian dâm, loạn tài.
Tham phùng phụ nữ hoài thai
Đẻ rồi, bệnh phải đau rai nửa mình.
Thương người Cơ, Khốc gia lâm,
Hỷ cùng Dương hợp đã sâm người nhà.
Âm nhàn, Đà, Hổ, Tuế gia
Trước sân chợt thất huyên hoa rụng rời (mẹ chết)
Linh tinh, Việt hoả bên đoài,
Gia trung hương hoả kìa ai lạnh lùng
Quý hội hợp vào cung Thân, Dậu (cung Tử)
Đến phật tiên cầu tự mới sinh
Sửu cung đều có Hung tinh
Kẻ đau, người bệnh tại ông Thành Hoàng.
Cấn, Dần, Sửu sao tàng Linh, Hoả
Con hồng tinh biến hoá cành cây (cung Điền)
Long phùng Phượng, Hỷ cung hay
Vui mừng mới thấy, bi ai bỗng liền
Lộc-tồn, Tử cùng Thiên-mã hội
Ngộ Phi thường mừng buổi phong lưu
Kình-dương mà ngộ Thiên-đồng
Gặp Linh thủa ấy phải cầu hôn nhân,
Nhà đều sợ Phá-quân, Hao thủ
Ngộ Tử, Lương, trừ lũ Hung tinh
Việc người sích mích khá không?
Tử-vi, Khôi, Việt ba ông phải tìm.
Hợi, Tý gặp phải hiềm Phật, Thánh
Dậu, Thân lâm tính chốn liên đài
Tử, Tham, Khôi, Việt nam (Ngọ), đoài (Thân)
Long thần cầu đảo bệnh ai lại lành,
Mão, Thìn ngộ đã đành ông Táo
Ly, Tốn, phòng phải Cáo ôn binh
Di cung nếu giáp Quý tinh
Đi qua đến miếu phải kinh ma làm.
Mệnh Thân, Dậu đồng lâm Không, Kiếp.
Gia Triệt, Tuần phải khiếp gian nguy.
Mệnh cung ví có Tử-vi
Tương phùng hạn nhược vận suy chẳng hiềm,
Cung Huynh đệ Triệt, Tuần xung thủ
Chim đầu đàn vỗ cánh bay khơi
Tướng-quân, Lộc, Mã có người,
Giầu sang đảm lược, nên trai anh hùng
Tướng ngộ Đào, Hồng cùng chiếu,
Ngôi màn Đào có ả Thôi Nương
Tràng-sinh, Đế-vượng đa nhân
Giáp chiếu Nhật, Nguyệt có lần sinh đôi,
Đế-vượng ngộ Thai, Khôi, cùng Tướng
Có dị báo hai đám anh em
Thái Âm hiềm có Thiên-cơ
Âm cung mấy Phúc đồng sinh lưỡng bào
Tam Không, gia nội tao cát diệu
Ngộ Dưỡng tinh cũng nẻo con nuôi
Đào-hoa, Thai, Hỷ trong Khôi,
Ngoài ra Binh, Tướng ả vui loang toàng (chửa hoang)
Tướng, Phá, Phục trong làng Thai diệu
Ngoài Đào, Hồng, Hoa-cái Thiên-di
Có người dâm dục thị phi
Tư thông chi dựng kẻ chê người cười
Sao Hình thủ cùng người đánh lộn
Kỵ sinh lâm, lòng vốn bất hoà.
Lộc-tồn, Thiên-mã cùng gia
Có người buôn một, bán ba lên giầu
Vũ, Tướng ở đầu cung ấy
Nghệ bách công ai thấy cũng dùng (anh em làm thợ giỏi)
Tử, Tang, Tả, Hữu hội trung
Có người con gái lộn chồng tìm ra
Sao Xương, Tuế một toà đóng đấy
Thập lý hầu hẳn thấy một hai (anh em tài giỏi)
Việt, Khôi, Khoa mục chẳng sai
Khôi huynh, Việt đệ là bài trong kinh
Triệt, Tuần ngộ Thiên-hình đóng đấy,
Người một phương chẳng thấy họ hàng (anh em lưu lạc)
Kình tinh ngộ Kỵ, Âm, Dương
Ắt trong Đới tật có người hại thê
Cung Thê thiếp, Đào, Hồng tương ngộ
Vợ mấy người đều có dong nhan
Có Riêu, ấy ngoại tình bàn,
Tử, Không ngộ Mã lắm đàn buớm ong (lấy vợ giang hồ)
Mã chẳng gặp Tứ Không ở đó
Thời con nhà vọng tộc lương gia
Phượng, Long đẹp đẽ ai qua,
Hình dong mặt mũi, dỗ hoa tốt vầy.
Tang, Không, Khốc dị sinh hoán cải (duyên số lật đật)
Để di truyền vạn đại về sau.
-HẾT-