Chúa Bói Nguyệt Hồ Là Ai? Sự Tích Và Đền Thờ
Theo dõi Tử Vi Cải Mệnh trên- 201 Lượt xem
- Cập nhật lần cuối 26/10/2023
Chúa Bói Nguyệt Hồ được mệnh danh là Bà Chúa bói dưới thời vua Hùng Vương. Đền thờ Bà hay còn được gọi là đền thờ “chúa Bói” duy nhất tại Việt Nam là điểm du lịch văn hóa tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng. Nằm tại thượng lưu dòng sông Thương, thuộc Bắc Giang, ngôi đền là một trong những di tích cổ mang trong mình những tín ngưỡng dân gian gắn liền với các truyền thuyết và lịch sử của dân tộc.
Chúa Bói Nguyệt Hồ được mệnh danh là Bà Chúa bói dưới thời vua Hùng Vương. Đền thờ Bà hay còn được gọi là đền thờ “chúa Bói” duy nhất tại Việt Nam là điểm du lịch văn hóa tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng. Nằm tại thượng lưu dòng sông Thương, thuộc Bắc Giang, ngôi đền là một trong những di tích cổ mang trong mình những tín ngưỡng dân gian gắn liền với các truyền thuyết và lịch sử của dân tộc.
Sự tích về Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Tương truyền rằng, xưa kia Bà cũng là một người sống ở vùng đất Bắc Giang, cuộc đời bà từ khi sinh ra đã phải sống trong cảnh khổ cực, cơ hàn: hai mắt bị mù lòa, vừa mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tuy sóng gió như vậy, Bà vẫn luôn sống thiện lương, hiền lành, nhân hậu. Khi gặp được Lão Tổ Quỷ Cốc Tử Tiên Sinh, Ông đã nhận Bà làm đệ tử, truyền dạy cho Bà những đạo pháp của mình, đó chính là thuật chiêm tinh bói toán. Đồng thời, Lão Tổ cũng đặt niên hiệu cho bà là Nguyệt Hồ. Sau khi học hết được các phép tiên của Tiên Sinh, Bà nguyện dành hết cuộc đời mình để làm phúc giúp dân lành. Một thời gian sau, tiếng lành vang xa, bà được nhà vua mời về kinh đô làm quân sư cho mình. Mỗi lần đánh trận, vua đều sai người đến thỉnh cầu, xin lời phán của Bà.
Theo thần tích khác của vùng Bo (Yên Thế), sự tích của Chúa Nguyệt Hồ lại có ghi chép khác như sau: Cuối đời vua Hùng Duệ Vương, quân Thục ồ ạt đưa quân sang âm mưu xâm chiếm nước ta. Hùng Duệ Vương bèn hạ cáo cho người đi khắp nơi tìm người tài giúp vua đánh giặc. Tại vùng Bo có hai người đàn ông là ông Cao và ông Quý đã tình nguyện ra ứng tuyển, nhận nhiệm vụ giúp vua dẹp giặc. Tuân lệnh vua, hai ông chỉ huy quân đội đến vùng Bắc Giang này và ngày đêm luyện binh chờ thời cơ đánh giặc. Khi quân Thục kéo sang xâm lược, hai bên giao chiến ác liệt, quân ta do sức yếu lực lượng mỏng nên đã đánh không lại quân địch. Hai ông Cao – Quý chỉ huy quân rút lui, lùi về dọc theo chiều sông Thương rồi đợi thời cơ, địa hình hiểm trở quay lại giết địch. Thuyền chiến dùng dằng không rời bến được vì bà con nhân dân còn lưu luyến vùng đất. Khi bà con rời thuyền quay trở lại vùng Bo, hai ông chỉ huy toàn quân quay lại đánh giặc. Bị bất ngờ phản công, quân Thục tự nhiên hoảng loạn, vỡ trận, chạy tan tác. Sau chiến thắng, hai ông trở về khao thưởng binh sĩ rồi hồi triều báo tin với vua. Trước khi hồi chiều hai ông quay lại vùng Bo để ngắm nhìn cảnh vật nơi đây, rỗi bỗng nhiên hai ông hóa tại đó. Phu nhân và con gái biết chuyện, vì quá đau buồn và thương nhớ người chồng, người cha nên cũng đã hóa để đi theo. Thời điểm đó, chính là ngày 15 tháng 2 âm lịch.
Để tưởng nhớ công lao của hai ông, nhà vua phong hai ông là Thượng Đẳng Phúc Thần và xây dựng đền miếu tại nơi các vị đã đánh giặc và thờ phụng mãi mãi. Đến thời vua Lê Đại Hành có sắc phong cho hai ông là:” Cao Sơn Quý Minh Đại Đức Hùng Lược Trác Vĩ Đại Vương Thượng Đẳng Thần”. Đến triều Nguyễn, người dân bản địa đã xây dựng một miếu thờ ở Huyết Hồ, xin triều đình cho phép thờ thần là Nguyệt Nga phu nhân và con gái của vị thần họ Cao. Sau này, các triều vua Tự Đức năm thứ 3 (1850), vua Duy Tân năm thứ nhất (1907) cũng đều lần lượt sắc phong cho Nguyệt Nga phu nhân.
Xem thêm: Chúa đệ nhất tây thiên
Đền thờ Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền Chúa Nguyệt Hồ vẫn giữ nguyên những nét kiến trúc cổ xưa đậm chất tinh hoa văn hóa, tinh thần dân tộc. Quần thể di tích cổ hiện nay vẫn giữ được gần như nguyên vẹn với các công trình: Cổng đền với họa tiết rồng bay cầu kỳ cùng 2 pho tượng hộ pháp, khu sân đền với nhiều cây cối xanh mát, hồ Nguyệt, khu đền chính gồm tòa đại bái và hậu cung. Trong khu vực hậu cung thờ Bà Chúa Bản Đền hay còn gọi là Chúa Nguyệt Hồ. Cùng với đó là bài trí, sắp đặt các tượng thờ theo đạo thờ Mẫu bao gồm hàng Thánh Mẫu tới hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, các cô, các cậu và Đức Thánh Trần. Hai cung bên ngoài cũng được bố trí tượng thờ theo thứ tự của đạo thờ Mẫu như vậy.
“Thờ Mẫu” là tín ngưỡng của dân gian người Việt cổ đã có từ xa xưa. Do đó, khi đến đền, chùa, người hành hương trước tiên phải đến bái Mẫu trước.
Lộ trình di chuyển đến đền Chúa Nguyệt Hồ
Để đi lễ đền chúa Nguyệt Hồ, bạn có thể đi bằng phương tiện xe khách hoặc phương tiện di chuyển cá nhân.
Nếu đi bằng phương tiện xe khách, bạn đến bến xe Mỹ Đình bắt xe đi Yên Thế, Bắc Giang. Khi đến bến xe Yên Thế, bạn tiếp tục bắt xe ôm hoặc taxi về đền Chúa Nguyệt Hồ. Tuy nhiên quãng đường này khá xa, dài khoảng 13km vậy nên bạn cũng cần cân nhắc nên thuê xe du lịch hoặc đi xe cá nhân để tiện lợi nhất.
Nếu đi bằng phương tiện xe ô tô riêng, quãng đường nhanh nhất là đi theo ĐCT Hà Nội – Bắc Giang có trạm thu phí, mất khoảng 2 tiếng cho 90km. Theo đó bạn rời khỏi Hà Nội theo đường cầu Vĩnh Tuy, rồi rẽ phải tại Garage Xuân Trường vào đường Cổ Linh, băng qua Co Quán, rẽ trái vào dịch vụ photocopy Yến Nhi, vào Thạch Bàn, rẽ phải tại cửa hàng Vật Liệu Xây Dựng Hà Thành, rẽ trái tại tiệm cắt tóc Quyền Lâm vào ngõ 68 Nguyễn Văn Linh và đi tiếp tới ĐCT Hà Nội – Bắc Giang (ở đây có trạm thu phí tại đây), tại vòng xuyến đi theo lối ra thứ 3 – QL1 – TL265 – ĐT 242 – đền Chúa Nguyệt Hồ. Nếu bạn muốn đi quãng đường không có trạm thu phí thì có thể tham khảo lộ trình cho xe máy bên dưới.
Lộ trình di chuyển bằng ô tô có trạm thu phí
Nếu lựa chọn di chuyển bằng phương tiện xe máy, bạn có thể di chuyển bằng lộ trình đường dài 86,6km, dự kiến mất khoảng hơn 2 tiếng và không mất phí. Theo đó, bạn rời Hà Nội theo lối cầu Chương Dương – Nguyễn Văn Cừ – tại vòng xuyến đi theo lối ra thứ 2 rẽ vào Ngô Gia Tự – Cầu Đuống – Hà Huy Tập – Đặng Phúc Thông – Trần Phú – Lý Thái Tổ – rẽ phải vào ĐCT Hà Nội – Bắc Giang– tại vòng xuyến đi theo lối ra thứ 3 – QL1 – TL265 – ĐT 242 – đền Chúa Nguyệt Hồ.
Lộ trình di chuyển bằng xe máy
Hội đền Chúa Nguyệt Hồ
Để tôn vinh và tưởng nhớ công ơn của Chúa Nguyệt Hồ, cứ đến ngày 15 tháng 2 âm lịch hàng năm là nhân dân vùng thượng lưu sông Thương, Bắc Giang lại tổ chức lễ hội tại đền. Trong suốt những ngày diễn ra lễ hội, đền luôn đón hàng ngàn lượt khách từ thập phương đổ về hành hương và lễ Chúa Bà, cầu mong bình an, may mắn và tài lộc.
Trong ngày tổ chức lễ chính, tức ngày 15 tháng 2 âm lịch, nhân dân vùng Bo lại cùng nhau rước kiệu từ đình Bố Hạ về đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Hoàn thành tế lễ tại đền Trung xong thì mới rước kiệu về đến đền Nguyệt Hồ. Tại đây, phần tế lễ của Chúa Nguyệt Hồ được thể hiện qua các bài hát cúng chầu văn. Những người được chọn hát trong phần lễ này phải là những người đàn giỏi, hát hay và gia đình không có tang bụi.
Kinh nghiệm khi đi lễ Chúa Nguyệt Hồ
Hầu giá Chúa Nguyệt Hồ
Trong Tam Vị Chúa Mường, thì Chúa Nguyệt Hồ là vị Chúa bói danh tiếng nhất và rất hay về ngự đồng. Khi thỉnh Chúa, Chúa Bà sẽ về ngự và chứng tòa chúa Đệ Nhị màu xanh lá cây. Do đó, khi hầu đồng, người hầu bóng sẽ phải vận áo xanh, khăn xếp xanh và múa mồi thì Chúa Bà mới chứng cho.
Dâng lễ Chúa Nguyệt Hồ
Hàng năm cứ đến những dịp lễ hội lớn tại đền Chúa Nguyệt Hồ, hàng ngàn du khách thập phương lại đổ về nơi cửa đền để xin lộc, cầu tài, bình an trong cuộc sống. Để bày tỏ lòng thành kính của mình, các con hương đều dâng lên Chúa Bà những lễ vật đẹp nhất, cầu kỳ nhất.
Lễ vật khi đến cửa đền Chúa Nguyệt Hồ nên có bao gồm 1 bó hoa, 1 đĩa quả gồm nhiều loại quả, 1 chai rượu nhỏ, 1 đĩa trầu cau, giấy tiền, xôi thịt và cánh sớ.
Sau khi dâng những thức lễ này lên trên ban thờ thánh, bạn hãy chờ hết một tuần hương rồi hạ lễ. Riêng cánh sớ và tiền giấy thì bạn đem đi hóa tại nơi hóa sớ của đền.
Bản văn Chầu Chúa Nguyệt Hồ
Bản 1:
Ai lên đến Cao Sơn Bạch Mã
Hỏi thăm Đền Chúa Nguyệt nơi nao
Hỏi thăm ga Kép mà vào
Ngôi đền Chúa ngự khác nào động tiên
Bốn mùa hoa trái dâng lên
Bạn tiên tấp nập đôi bên ra vào
Trước ngôi cao rầu rầu nét mặt
Chiếc gậy son chúa đặt phía sau
Lá trầu với lại quả cau
Tiền đài chiếc tráp sơn màu xanh lam
Chúa ngồi đó lòng đau như cắt
Dưới trần phàm bao kẻ u mê
Nhớ người con gái thôn quê
Không may nhỡn đãng phải bề khổ tâm
Sống âm thầm mồ côi cha mẹ
Gặp được Thầy Quỷ Cốc tiên sinh
Một đời làm phúc quên mình
Truyền ban ấn quyết đặt tên Nguyệt Hồ
Tiếng đồn cho tới kinh đô
Có bà Chúa Bói Nguyệt Hồ rất hay
Cửa nhà gia sự hôm nay
Mồ mả đất cát Chúa rầy chỉ cho
Âm dương chồng vợ căn do
Hợp tan tan hợp chỉ cho rõ ràng
Tiền hậu vận mọi đàng hay dở
Việc trong ngoài lầm lỡ chỉ cho
Về đồng phán bảo nguyên do
Có căn có số phải lo trình đồng
Tam đầu cửu vĩ thuyền rồng
Thoi xanh rừng núi sớ hồng kim ngân
Hình hài nón chúa kính dâng
Lập đàn thỉnh chúa lai lâm ngự về
Phép tiên chúa đáng tài cứu thế
Tiếng oai linh quyền chế nơi nơi
Phép tiên xoay đất chuyển trời
Gia công hộ phép cứu người trần gian
Thỉnh mời tiên chúa lai loan
Khuông phủ đệ tử nhân khang thịnh cường.
Bản 2:
Rừng tùng bách bốn mùa rợp bóng
Cánh sen hồng còn đọng hơi sương
Hay đây là sự phi thường
Nguyệt hồ chúa bói anh linh ai tày
Ơn lão tố theo thày học đạo
Mười năm tròn tu kiếp thiên nga
Nói rồi binh lửa can qua
Mẫu cho giáng thế trừ tà cứu dân
Nhớ tích xưa đời Lê Thái Tổ
Một thôn nghèo mái đổ màn sương
Lam chiều rặng cúc đưa hương
Chim ca vượn hít bên đường hoa chen
Khắp chuyện lạ trên trời dưới bể
Có những điều không thể tìm ra
Từ sinh vận hạn trong nhà
Khí hư vận kèm toàn gia tới kỳ
Đường dài tài lộc sinh ly địa lý
Hay huyết ly mộng mỵ thủy phòng
Ý đồ đen trắng đục trong
Người sinh số mệnh đo lòng thanh tao
Đường vận mệnh ai nào biết trước
Kêu chúa bà thời được biết ngay
Ơn trên thánh tổ cao dày
Truyền cho ấn quyết ra tay phù đời
Thuở nam việt nhớ xưa nguồn cội
Chúa có tài bấm độn lục nhâm
Phép tiên xem bói nhập thần
Xem trong thế sự thăng trầm ra sao
Dù ai bị ma cao phù quyết
Bệnh thời làm chẳng biết căn do
Linh phù bùa yếm bà cho
Trừ tà diệt quý khiến cho lại thành
Tiết xuân xanh thành tâm khấn nguyện
Tiến văn chầu chúa Nguyệt cung nga
Hương thơm tấu thỉnh ba tòa
Độ cho đồng tử vinh hoa thọ trường.